Profile Visitor Map - Click to view visits

Nhớ Chiếc Áo Dài Xưa

(Tặng khách hành hương về nguồn)

Yêu em từ kiếp nào
Gặp em chừng lâu lắm
Nét tha thướt ấp ủ làn hơi ấm
Tà áo bay in đậm dấu thời gian
Gà gáy trưa, thôn cũ nắng tràn
Áo chẹt vá quàng - Giọng ầu ơ của mẹ
Gió thoảng lướt, nhịp võng trưa đưa nhẹ
Thế giới huyền mơ chợt ghé miên man
“Trầu lên nửa nọc trầu vàng
Thương cô áo chẹt, vá quàng nửa lưng”

Những mùa xuân tiếp nối những mùa xuân
Bước thơ ấu ngập ngừng hoa với mộng
Nẽo trước thênh thang – Dòng thời gian trải rộng
Cụm đất nghèo vắng bóng những niềm vui
Cuống rún lìa xa, tấc dạ bùi ngùi
Chiếc áo vá quàng, cuộc đời đen như đất
Cô thôn nữ mãi lũ lam đời chật vật
Tre sau nhà cao ngất đứng mỏi mòn
Đời xuôi mau - Người mất, áo chẳng còn
Bùn nước đọng, gót chân son là dĩ vãng

Tim rộn rã, muốn tâm tình trút cạn
Có người tìm cô bạn Gia Long
Cô gái trường áo tím ngày xưa
Trong nắng ấm má hồng
Giờ tóc dệt màu bông
Mà tà áo vẫn bình bồng trong tâm tưởng


Đã biết yêu mà hồn còn rất ngượng
Chiều hoài hương – Chân lạc hướng đất người
Nửa tháng cháo chợ cơm hàng –
Ròng rã đếm mưa rơi
Tay úp mặt – Ôm mảnh đời lưu lạc
Núi Ngự mờ sương – Dòng Hương trong vắt
Cầu Trường Tiền xa lắc sáu vại dài
Khói sóng hoàng hôn – Lòng chợt ấm chiều nay
E ấp nón bài thơ, thướt tha tà áo dài Đồng Khánh
Gót viễn xứ, chiều Cố Đô lành lạnh
Dạ nhuốm vui, khóe mắt rịn giọt sương
Gác trọ nghèo lóng gà gáy tha hương
Bóng nhòa nhạt hắt lên tường cô độc

Cuộc chinh chiến lê chuỗi ngày thảm khốc
Tình vù bay, cắt ngang dọc bạn, thù
Giữa trưa hè sụp bóng tối âm u
Lá lả tả dù ngày thu chưa tới
Trời đất rộng bom cày đạn xới
Màu áo xưa bay vội đỉnh mây mù
Cấy đông ken đêm lạnh hoang vu
Nơm nớp sợ trận đổ dù, phục kích
Cô gái quê cầm lồng đèn, ôm tập sách
Lớp i tờ - Trường dừng vách lá chằm
Tai ngóng nghe đạn pháo réo gầm
Miệng lẳm nhẳm thì thầm bài mới học
Gọn trang phục, gọn chân tay đầu tóc
Có mơ gì cái hình vóc thướt tha
Bọc lụa nhung ngũ sắc của Hằng Nga
Chiếc áo dài là tinh hoa nét đẹp

Đã hết rồi hận thù và sắt thép
Nới rộng tay làm mà vẫn hẹp miếng ăn
Đời đương cần lưng thớt bắp tay săn
Thiên hạ nghĩ: “Đẹp đâu bằng có ích”
Quần chặm vá, mảnh áo thô nặng trịch
Dép kéo lê la thanh lịch đời người
Chóng qua rồi cái thập kỷ bảy tám mươi
Vũng nông hẹp, ta khóc cười lặn hụp
Xó bếp vắng, con chó già ẩn núp
Chường mặt ra sợ bị chụp, bị vồ
Cài chặt then, sợ ruồi muỗi bay vô
Gặm nhắm mãi khúc xương khô meo mốc
Cô giáo trẻ bước vào lớp học
Bận quần tây, áo cộc hở mông đùi
Chiếc áo dài ơi! Ta tiếc mãi khôn nguôi
Sống giữa đám mù đui nghệ thuật
Kẻ hiểu biết lặng câm – Mà nỗi lòng u uất
Người ngu si theo lốc trốt cuốn đi
Dạ, dạ, vâng lòng chẳng nghĩ suy
Dạ non nớt biết gì là nét đẹp

Óc hủ lậu, được một thời cũng đẹp
Bay xa rồi cảnh mắt khép tay che
Mở toang hoác cửa ra – Gió lộng tư bề
Bốn biển năm châu - Lối đi về muôn nẽo
Đã mười năm theo chân người lẻo đẻo
Nay rực rỡ hào quang thần diệu giống Tiên Rồng
Thổ Cẩm muôn màu, gấm Thái Tuấn, lụa Hà Đông
Đưa lên đỉnh chiếc áo dài của giống dòng Lạc Việt

Hải Chu 08-03-2002


Thứ Tư, 25 tháng 3, 2009

Phương Ngữ- Vần G

G

GÀ :
- HV: kê.
: loại gia cầm nuôi để lấy trứng, thịt hoặc để đá độ.
Tuổi Dậu con gà vàng lông,
Có mỏ có mòng, hay gáy ó o.
*-gà cồ:gàtrống già to con.
Gà cồ ăn tấm mông mông,
Mấy đời cháu ngoại giỗ ông bao giờ.
*-gà lôi: (cg: gà tây) - gà to con, lông đen trắng. Gà trống có tích dài lòng thòng, đuôi có thể xếp lại hay xòe ra như con công trống.
Gà lôi đội lốt con công,
Tưởng mình là ngộ đi dông đi dài.
*-gà nòi: (Đ.ng: gà chọi) - gà ít lông, mình nhẹ được tuyển chọn kỹ từ dòng gà đá độ giỏi có tiếng.
Đừng thấy áo rách mà cười,
Cái giống gà nòi lông nó lơ thơ.
*-gà ri: (cg: gà ác) - loại gà nhỏ con, lông trắng mảnh và mịn, chân và da thịt đen.
Gà rừng trống tía gà ri,
Cháu ở với dì kêu dượng bằng anh.
GÁ:
:ráp vào, gắn vào cho dính.
*-gá duyên: nối kết tình duyên với người khác phái để cùng xây dựng
cuộc sống êm ấm hơn.
Dưới sông, sóng vận cát đùa,
Gá duyên không đặng, vô chùa em tu.
*-gá nghĩa:
: ( trai gái )nối kết tình nghĩa với nhau.
Buồn tình gá nghĩa mà chơi,
Hay là anh quyết ở đời với em?
-( cách phát âm xưa của người Nam bộ khi đọc chữ NGHĨA là ngãi hoặc ngỡi. )
Đôi ta gá ngỡi không bền,
Dứt đi cho rảnh, xuống lên làm gì?
*-gá thân: cũng có nghĩa như gởi thân,-trao gởi thân phận mình cho người khác.
Thân em như cánh buồm trước gió,
Nay đây mai đó thiệt khó làm sao,
Biết đâu nhơn nghĩa đặng vào gá thân.
GẢ:
- HV giá.
: thuận cho con gái hoặc em gái mình về làm dâu nhà người khác theo đúng
phong tục lễ nghi cưới hỏi.
Má ơi! Đừng gả con xa,
Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu.
GÁC CU:
: bắt con cu hoang dã bằng cách dùng cây sào dài đưa cái lục lên cao rồi gác lên ngọn cây. Trong lục đã có con cu mồi. Mỗi lãnh địa đều có một con cu trống chiếm lĩnh. Khi được gác lên cao, con cu mồi trong lục bắt đầu bo và gáy, trước còn gáy lơi,sau gáy thúc. Khi nghe tiếng gáy lạ, con cu rừng vùng đó tìm tới để đá đuổi con cu lạ bay đi. Đầu tiên, nó đáp xuống đậu ở ngọn cây gần và cất tiếng gáy, ngầm bảo với con cu mồi rằng đây là nơi nó ngự trị. Con cu mồi hay sẽ đáp trả bằng một hồi gáy thúc với ý thách thức. Con cu rừng tới đậu trên vành lục. Khi đã thấy rõ mặt kẻ thù dám cả gan xâm phạm lãnh địa của mình, con cu rừng nhào vô trong lục để đá con cu mồi, làm bật cái chốt. Cửa lồng sập xuống, nó bị nhốt gọn trong lục. Người ta lấy cây sào đem lục xuống, bắt nó ra. Việc gác cu chẳng cực nhọc gì nhưng đòi hỏi nhiều thì giờ và sự kiên nhẫn. Có khi người gác cu phải bỏ cả công ăn việc làm đi tìm hiểu và có khi gặp phải con cu rừng khôn thì khó bắt được. Vì vậy, người đời cho rằng gác cu là làm việc vô ích và dại dột.
Ở đời có bốn cái ngu,
Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu.
GAI:
-t.k.h: Boehmeria nivea, họ Gai Urticaceae.
: (thực) - Cây sống lâu năm, có thể cao tới 2m. Lá lớn, hình tim, mép có răng cưa, bề dưới có phủ lớp lông trắng, mặt trên nhám màu xanh đậm, có ba gân từ cuống lá phát ra. Hoa đơn tính mọc ở nách lá. Cây đườc trồng khắp nơi để lấy lá gói bánh (bánh ít lá gai) và lấy sợi chắp lại thành dây bền chắc, làm lưới hoặc dây trân dệt chiếu .
Ngồi buồn sao chẳng chắp gai,
Để khi có cá, mượn chài ai cho.
GÃI:
: lấy móng tay quào trên da cho đã ngứa.
Ngứa gãi sột soạt,
Là chợ Hốc Môn.
(Vè các chợ)
GẠN:
1-bỏ bớt những cái mình không vừa ý.
Vd: gạn sạch vỏ đậu
2-hỏi cho kỹ, cho rõ.
-cn: hỏi gạn / gạn hỏi.
Tìm bà nguyệt gạn thiệt cho rành,
Vì đâu hoa nọ bỏ cành,
Nợ duyên sao khéo dứt tình,hỡi em!
GÀNH:
-Đ.ng: ghềnh.
1-bực đá cao cheo leo cạnh trũng nước sâu hoặc cạnh vùng bằng phẳng thấp.
Em ơi! Em không nhớ thuở xưa kia,
Anh Vân Tiên mắc nạn, chị Nguyệt Nga nằm gành.
hoặc:
Nước ròng bỏ bãi bày gành,
Bậu đem duyên đi bán, đất Châu thành đều hay.
2-chỗ nước sâu ngòai biển khơi, còn gọi là rún biển.
Vd: sóng bủa gành: sóng vỗ ầm ầm giữa biển khơi.
Ngư dân chỉ có thể cảm nhận được tiếng sóng bủa gành vào mùa gió chướng.
Gành còn được đọc trại âm là gãnh( nghĩa 1 )
Tiếng đồn gái Gãnh Bà Hiền
Ở ăn thuần hậu, ấy duyên với mình.
( Gãnh Bà Hiền thuộc huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre ).
GÁO:
1- vật múc chất lỏng, thường làm bằng sọ dừa, có tra cán dài để cầm.
Cha tôi đành, mẹ lại chẳng đành,
Giả như gáo nước tưới lửa thành không tan.
*-gáo dừa: vỏ sọ dừa.
*-gáo đồng: gáo làm bẳng đồng, có ý nói là cái gáo quí giá.
Gáo đồng múc nước giếng tây,
Khôn ngoan cho lắm tớ thầy người ta.
Ghép ngược:
-đờn cò gáo (xt: đờn)
GÀU:
: đồ dùng để múc nước, gánh nước hoặc để tát đìa, tát nước đám mạ.
Gàu lành ai lại trét chai,
Gái hư chồng để, khoe tài nỗi chi.
Trước đây, từ thập niên 1950 trở về trước, người ta dùng gàu xà nách được kéo bằng lá cà bắp non để múc nước từ giếng lên. Gàu này mau hư vì mấy ngày sau,lá khô thì không còn kín để giữ nước được. Hơn nữa, không phải ai cũng có thể làm được gàu này. Vì vậy, người ta đươn gàu múc nước bằng tre có trét chai hoặc dầu hắc để xài đưỡc lâu hơn.
Ngòai ra, còn mấy lọai gàu:
*gàu dai: gàu đan bằng tre, miệng tròn cặp một vành tre to bản chắc chắn, tóp nhỏ từ từ lại.Có bốn sợi dây buộc vào bốn khúc tre ngắn để cầm. Sòng là trũng vét sâu chứa nước. Hai người đứng hai bên. Mỗi người cầm một sợi dây miệng và một sợi dây đáy. Hai người phải có những động tác nhịp nhàng,ăn rập nhau. Đầu tiên, cả hai cùng thả gàu xuống sòng. Kế đó, họ cùng hạ dây miệng để múc nước, căng dây miệng để đưa gàu lên miệng sòng rồi kéo căng dây đáy để đổ nước ra ngòai. Gàu này dùng để tát đìa, muơng.
*-gàu nan: để gánh nước, thường dùng để tưới hoa màu. Sức chứa mỗi gàu khỏang 20 lít nước. Người ta phải gánh đôi gàu trên bằng đòn gánh ngắn và nếu muốn nghỉ giữa chừng thì phải gác đòn gánh trên hai cây nạng chôn chắc xuống đất.
*-gàu sòng: gàu đan bằng tre có tra cán dài dành cho một người tát. Ba cọc tre dược cắm xuống đất và cột chụm đầu lại và một sợi dây thả thòng xuống buộc vào cán gàu. Gàu này thường được dùng để tát nước đám mạ.
GAY CHÈO:
1-xỏ cây chèo vào dây quai chèo, vặn tréo một vòng và tra quai chèo vô cọc chèo .
2-( ngh.b ): chuẩn bị rời bến.
Bước xuống ghe gay chèo vào lán,
Thương chút mẹ già đòi đọan héo don.
GẶC:
:có nghĩa như gật.
Râu tôm nấu với ruột bầu,
Chồng chan, vợ húp, gặc đầu khen ngon.
*-gục gặc: gật đầu nhiều lần tỏ ý ưng thuận.
GĂM:
-cn: cắm, ghim.
: đâm mũi nhọn dính vào.
Kim găm vào áo tránh khuy,
Giàu sang cũng đợi, lâm nguy cũng chờ.
GẪM:
-cn: ngẫm.
: suy đi nghĩ lại cho chín chắn.
Ngó lên mây bạc trời hồng,
Gẫm qua với bậu vợ chồng xứng đôi.
*-gẫm cười: suy nghĩ lại thấy tức cười.
Trước đèn, xem truyện Tây Minh,
Gẫm cười hai chữ nhơn tình éo le.
(Lục Vân Tiên - NĐC)
*-gẫm lại: suy nghĩ lại cho chín chắn thì thấy...
Việc đời gẫm lại thêmbuồn,
Củi đậu nấu đậu như tuồng người dưng.
GẬP GHÌNH:
-Đ.ng: gập ghềnh.
: nghiêng qua ngã lại, đứng không vững .
Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắc lẻo, gập ghình khó đi.
GẦY:
: tạo mô hình đầu tiên, khởi côngỉ làm việc gì.
Liệu bề đát đặng thì đươn,
Đừng gầy mà bỏ thế thường cười chê.
*-gầy dựng: bắt tay vò xây dựng.
Vái phụ mẫu bên kia hoà, bên đây thuận,
Hai đứa mình vô gầy dựng cửa nhà.
GO:
: bộ phận để luồn canh chỉ dọc trong khung dệt.
Chim quyên ăn trái bo bo,
Thương người dệt cửi trao go một mình.
GÒ:
1-uốn cong và dùng búa nhỏ đập kim loại để làm thành đồ dùng có hình dạng như mình muốn.
-gò máng xối,-gò thùng tưới.
2-o bế tán tỉnh người khác phái để kết nhân tình.
Ruộng gò lấy cúa Nàng Co,
Thương anh thì thương đại, đừng để anh gò mất công.
*-gò mèo: theo sát một người nào để ve vản với ý nguyện kết làm nhân tình.
GÕ:
-Đ.ng: gụ.
-t.k.h: họ phụ Điệp Caesalpininoideae có nhiều loại:
*-gõ biển: t.k.h: Intsia bijuga. Cây cao tới 35m, nhánh không lông, hoa trắng, quả bì cứng, không dày lắm, chứa 1-8 hột. Gỗ rất tốt, hột ăn được. Cây mọc ở rừng cát, rừng sác, phân bố vùng Sài Gòn, Đồng Nai, Côn Sơn, Phú Quốc.
*-gõ đỏ: (cg: gõ tò te) t.k.h: Afzelia xylocarpa. Cây cao tới 30m, gỗ nâu vàng, vỏ láng trắng. Chùm tụ tán phát ở ngọn nhánh, hoa hường. Quả bì dày, cứng chứa 7-8 hột, mỗi hột có vỏ cứng màu cam. Gỗ quí nhất hạng. Cây phân bố trong rừng hỗn hợp, ở cao độ dưới700m vùng Đồng Nai, Sài Gòn, Tây Ninh.
*-gõ mật: t.k.h: Sindora siamensis. Cây to, thân suôn, vỏ xám đen ít nứt. Trái giẹp, tròn, có gai, chứa 1-3 hột trong vỏ cứng màu cam. Gỗ tốt, vỏ dùng sắn lưới, trái có thể dùng ăn trầu. Cây mọc trong rừng thưaở độ cao dưới 500m cùng với cây dầu , phân bố từ Đắc Lắc đến Sài Gòn.
Không phải căn duyên,
Bộ ngựa gõ, nhà ngói đỏ, anh cũng không màng.
GÓA:
- HV quả( chết chồng). Ngày xưa, 51 tuổi mà chưa có chồng vẫn gọi là quả.
Người bình dân Nam bộ thường đọc là dá / giá.
-đàn bà dá,- ở dá.
1- ( đàn bà ) sống cô độc hoặc chồng đã chết.
Lòng đây áo não tâm tình,
Thấy em ở góa một mình anh thương.
*-góa bụa: tình cảnh cô đơn của người chết chồng.
Linh đinh chiếc bách giữa dòng,
Thương thân góa bụa phòng không lỡ thì.
2-Theo ý nghĩa của từ, người đàn ông chết vợ được gọi là quan, người đàn bà chết chồng được gọi là quả. Vì vậy, theo nghĩa (1 ), người ta không gọi đàn ông góa. Nhưng sau này, hễ vợ chồng không còn đủ đôi đủ cặp thì được gọi là góa, không phân biệt nam hay nữ.
Đàn bà góa chồng phòng không trực tiết,
Đàn ông góa vợ mải miết ngòai đường.
GỎI CUỐN:
: món ăn gồm có thịt ba rọi, tép luộc, rau tơm và giá hẹ gói trong bánh tráng nem quấn lại thành ống tròn dài, chấm với tương xay để ăn.
Cầm tay em như bì nem gỏi cuốn,
Dưạ lưng em như uống chén rượu ngon.
GÒN:
-cg: gòn ta.
-t.k.h: Ceibi pentandra, họ Gòn ta Bombacaceae.
-Đ.ng: cây gạo.
: (thực) đại mộc thân có vỏ xanh, có gai hoặc không, gỗ xốp, nhánh ngang và xéo. Lá có 5-9 lá phụ, canh hoa trắng chỉ dính ở đáy. Trái tròn thon hai đầu. Bông gòn vàng ngà mịn, hột như hột tiêu không dính vào bông gòn.
Em về đếm cá dưới sông,
Để anh ở lại đếm bông cây gòn.
GỐI ĐẦU:
1-lấy vật gì kê làm gối và gác đầu lên.
Vd: gối đầu lên tay: co tánh tay lại để kê làm gối.
2-gác một phần lên trên – ở sát một bên.
Ba Lai cầu gối đầu Rạch Miểu,
Anh thương anh biểu, chớ anh chưa hiểu song thân.
GỐI LUÔN:
-cn: gối đôi.
: lọai gối có hai cái kết dính vào nhau để hai người cùng nằm.
May gối luôn bằng nỉ thật kỹ mình nằm,
Tại mình ở bạc, đem bằm gối luôn.
GỠ:
1-tách rời vật gì khỏi một vật khác.
Vd: gở cá khỏi lưỡi câu.
2-tìm manh mối để tháo chỉ, tơ đã rối.
Chỉ tơ rối rắm trong cuồng,
Rối thì anh gở, em buồn chuyện chi?
GÙ:
1-(con cu trống) kêu tiếng dài và êm để ve vản khi muốn đạp mái.
2-o bế, tán tỉnh để dẫn nhau đi.
Tiếc công vãi tấm cho cu,
Cu ăn, cu lớn, cu gù nhau đi.
GỤC:
1-cúi mặt, cúi đầu xuống.
Vd: Nó mắc cỡ, cúi mặt không dám nhìn lên.
2-cúi đầu xuống khi ngủ ngồi.
Gục xuống gục lên,
Kêu bằng chợ ế.
(Vè các chợ)

GỪNG:
- HV khương.
-t.k.h:Zingiber officinale roscoe, họ Gừng Zingiberaceae.
: (thực) cây nhỏ sống lâu năm, cao gần 1m. Thân rễ phì ra thành củ, lâu ngày thành xơ. Lá dài không cuống,có bẹ, mọc so le. Trục hoa phát xuất từ gốc, hình bầu dục.
Gừng càng già càng có vị cay nồng. Người ta trồng gừng để lấy củ làm mứt, làm gia vị, làm thuốc.
Tay bưng dĩa muối chấm gừng,
Gừng cay, muối mặn xin đừng quên nhau.
GƯƠM:
- HV kiếm.
: lọai vũ khí thời xưa có lưỡi dài để đâm hoặc chém.
*-gươm linh:( cg: gươm thiêng ).
: gươm quí tụ khí thiêng truyền từ người này tới người
khác.
Rút gươm linh tự ải bờ thành,
Chẳng thà lìa tử, bao đành lìa sanh.
*-gươm trường: do chữ trường kiếm, lọai gươm có lưỡi dài. Lọai gươm ngắn được gọi là đỏan kiếm.
Song song hai ngọn gươm trường,
Chết anh anh chịu, buông nường không buông.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét