Thứ Bảy, 14 tháng 3, 2009
7B- Tế Sĩ Dân
7B - TẾ SĨ DÂN
Bấy lâu cung nõ chẳng rời,
Mái tranh bốc lửa, máu rơi đường làng
Sân chùa chiếu chỉ đã ban
Lính dân trăm họ, dựng đàn cầu siêu.
Chết rồi nghiệp chướng đốn tiêu
Không phân bạn nghịch binh triều gì đâu
Cảm thương quỉ đói cụt đầu
Giựt giành cháo lú xôn xao Nại Hà,
Tiết lành trà quả hương hoa,
Đèn hiu hắt giọi, la đà trầm bay
Sụt sùi quì trước lễ đài,
Lòng thành, ngươn soái đọc bài tế văn:
BÀI VĂN TẾ RẰNG:
“1-Phách lạc Tây Trì
Hồn vương Trung Thổ.
2-Trời đất mười phương mờ cát bụi,
dặm chông gai lận đận,
phận đói nghèo vướng mắc lắm oan khiên;
Biển dâu bốn phía dấy binh đao,
kiếp cung kiếm gian nan,
lớp trai tráng đeo mang nhiều lụy khổ.
Nhớ Linh Xưa:
3-Làng xóm chăm tằm nia lúc rẫy,
đồng tiền liền khúc ruột,
tánh thiệt thà lo chí thú làm ăn;
Cửa viên quan trận giáp trường nhung,
Giáo khiên kết bạn bè,
bề trung ái theo hồi còi chiêu mộ.
4-Tấc đất ngọn rau gìn phải đạo,
Dám mong điều phú quí vinh hoa;
Nghĩa dân ơn nước sống trọn tình,
Đâu sá cảnh cơ hàn gian khổ
5-Biển lặng gió gầm;
Đất bằng sóng vỗ.
6-Ngàn trùng cách biệt kiếp vong gia;
Muôn lối âu lo người thất thổ.
7-Khói đen cuộn tan tành nơi nương náu,
Thương mồ mả ông cha tổ phụ,
lòng chạnh tình khó bước chơn đi;
Lửa đỏ thiêu tụi lủi vốn dụm dành,
tiếc công lao nước mắt mồ hôi,
dạ đoái cảnh khôn cầm lụy nhỏ.
8-Gót lưu lạc nhớ vườn cà giàn mướp,
Biết bao giờ đầm ấm tình quê;
Thân nổi trôi nằm góc biển ven mây,
Thương bỗng chốc xa rời chốn cũ.
9-Dạ muối xát nẻo trời quen đất lạ,
Nghĩa cù lao,
công hoạn dưỡng,
đâu đã đắp bù;
Lòng kim châm nơi doi sáng,
vịnh chiều,
ơn cúc dục,
đức sanh thành,
hẳn chưa báo bổ.
10-Xẻ đàn tan nghé,
Khó trọn đạo cha con;
Rẽ thúy chia quyên,
Khôn trọn tình chồng vợ.
Khá Thương Thay:
11-Giặc giết dân nghèo;
Trận bày xóm nhỏ.
12-Buổi loạn lạc nào theo điều nhơn nghĩa,
Đau đớn nghĩ người dân lương thiện,
mắc oan tình đành chôn xác rừng xanh;
Lũ bạo tàn đâu thiết chữ khoan dung,
ngậm ngùi thương trẻ ấu thơ,
chẳng nợ máu cũng vùi thây lửa đỏ.
Cho Nên
13-Anh hùng quyết dốc sức chem. Kình;
Hào kiệt lăm ra tay bắt hổ.
14-Hoặc là vướng cha thù anh oán,
Mang cung kiếm đeo lòng thù hận,
sức vẫy vùng nào kể tử sanh;
Hoặc là đền nợ nước ơn vua,
cắp mác dao trải mật trung trinh,
chí ngang dọc đâu màng yểu thọ.
15-Nghĩa cả nặng nề;
Thân trai năng nỗ.
16-Chim sè cánh xông vào cơn bão đạn,
Lòng nôn nao quét sạch bọn sói lang;
Rồng giương vi lướt dưới trận mưa tên,
dạ hăm hở đánh tan loài beo hổ.
17-Mòn mỏi cảnh nước khe cơm vắt,
Kiếp vô phần mãi đeo đẳng gót tha hương;
Đắng cay nơi đầu kiếm mũi dao,
niềm bất hạnh chẳng buông tha đời viễn thú.
Thương Ôi!
18-Cam phần căn phận định rủi may
Phó mặc đất trời ban lành dữ.
19-Thây rã rời nào kẻ xót thương;
Kiếp lao nhọc ai người che chở.
20-Cánh bằng lướt mây cao chin vạn,
Gươm lạc hồn, gói da ngựa nào hay;
Sức kình đè sóng dữ muôn trùng,
Kiếm đoạn mạng, nắm long hồng vội bỏ.
21-Mộ bạc phần vèo rít gió rừng hoang;
Xương vô chủ mờ soi trăng bến cũ.
22-Xuân Thu vắng lễ chưng thường
Sóc vọng lặng hương tế tự.
23-Chiều xuống muộn mong người xa xứ,
chợt nhớ cảnh én Nam nhạn Bắc,
vô tình bốn bức sầu giăng;
Đêm về khuya nhớ kẻ vắng nhà,
chạnh nhớ câu chồng Sở vợ Tần,
bất giác hai hàng lụy nhỏ.
24-Tàn cổ thọ mưa thu buông buồn lạnh,
Hương án ngọn đèn chong leo lét,
vợ dại còn đây;
Giọng đề quyên canh hạ điểm nhặt thưa,
Khăn tang bầy trẻ dại chít chiu,
Con thơ còn đó.
25-Dựa song lạnh im lìm tăm cá,
Nét võ vàng hướng mắt tận trời xa;
Ngóng người đi vắng bặt bóng nhàn,
bước sờ soạng gậy nương lần ngỏ nhỏ.
Ô Hô !
26-Một tướng danh thành;
Ngàn quân mạng bỏ.
27-Công hãn mã nặc nồng mùi tử khí,
Trăng mơ màng kêu réo quỉ Vô Thường;
Gác Lăng Yên lố nhố bóng cô hồn,
Đêm vắng vẻ khóc than ma uổng tử.
Bổn Chức Nay:
28-Chợt thấy kẻ che rũ màn xanh;
Thầm thương người xác vùi hố nhỏ.
29-Mảnh da ngựa bọc thây người chí lớn,
Xác xây thành trang sử vẫn chép ghi;
Lưỡi gươm vàng vấy máu kẻ thù chung,
Lính chết trận lòng dân luôn tưởng nhớ.
30-Ngôi Hoàng Cực sẳn mến tài hào kiệt,
ngự phê truyền xuống chỉ thưởng ban
Điện Kim Loan nay mở lượng biển trời,
Chuẩn tấu dựng lên đàn siêu độ.
31-Hoặc nợ sẳn với non xanh động biếc,
Lòng hư không phát nguyện tụng Huỳnh Đình;
Hay duyên xưa cùng phướn đỏ sen vàng,
bạn bè tiếp dẫn đưa linh về tịnh độ.
32-Tình người ấm áp,
lễ vãn vong rượu rót đôi bầu;
Trà quả đơn sơ,
tuần úy tế phẩm dưng một cỗ.
33-Phá vô minh xa lánh nghiệp luân hồi;
Theo chánh đạo tìm cầu đường giác ngộ.
34-Phò đất nước cho mưa hòa gió ngọt,
thuận ý trời mở đức Thuấn Nghiêu;
Giúp non sông cho bão dứt mây tan,
hợp lòng người lập đời Thanh Võ.
Có linh xin hưởng.”
Lời lời ý thánh câu thần,
Nên thiên hùng tráng, nên vần bi thương.
Tỏ mờ nến lạnh thê lương,
Ngẫm vời vợi cách âm dương - lệ nhòa,
Ai cầm được giọt châu sa!
Một luồng gió lạ cuốn qua thình lình.
Nghe dường vọng tiếng muôn binh
Khua gươm mặt đất in hình lưng mây
Chén trà chung rượu trong ngoài
Hốt theo trốt xoáy vù bay ngút ngàn.
Trời vần vũ phút tiêu tan
Từng cao xanh thẳm, ráng vàng thắm pha
Triều đình ngự bút ban ra
Tứ hôn hai họ giao hòa Huỳnh Châu
Xe tơ ả Chức chàng Ngâu
Pháo vui rộn rã đôi đầu cầu Ô.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét