Profile Visitor Map - Click to view visits

Nhớ Chiếc Áo Dài Xưa

(Tặng khách hành hương về nguồn)

Yêu em từ kiếp nào
Gặp em chừng lâu lắm
Nét tha thướt ấp ủ làn hơi ấm
Tà áo bay in đậm dấu thời gian
Gà gáy trưa, thôn cũ nắng tràn
Áo chẹt vá quàng - Giọng ầu ơ của mẹ
Gió thoảng lướt, nhịp võng trưa đưa nhẹ
Thế giới huyền mơ chợt ghé miên man
“Trầu lên nửa nọc trầu vàng
Thương cô áo chẹt, vá quàng nửa lưng”

Những mùa xuân tiếp nối những mùa xuân
Bước thơ ấu ngập ngừng hoa với mộng
Nẽo trước thênh thang – Dòng thời gian trải rộng
Cụm đất nghèo vắng bóng những niềm vui
Cuống rún lìa xa, tấc dạ bùi ngùi
Chiếc áo vá quàng, cuộc đời đen như đất
Cô thôn nữ mãi lũ lam đời chật vật
Tre sau nhà cao ngất đứng mỏi mòn
Đời xuôi mau - Người mất, áo chẳng còn
Bùn nước đọng, gót chân son là dĩ vãng

Tim rộn rã, muốn tâm tình trút cạn
Có người tìm cô bạn Gia Long
Cô gái trường áo tím ngày xưa
Trong nắng ấm má hồng
Giờ tóc dệt màu bông
Mà tà áo vẫn bình bồng trong tâm tưởng


Đã biết yêu mà hồn còn rất ngượng
Chiều hoài hương – Chân lạc hướng đất người
Nửa tháng cháo chợ cơm hàng –
Ròng rã đếm mưa rơi
Tay úp mặt – Ôm mảnh đời lưu lạc
Núi Ngự mờ sương – Dòng Hương trong vắt
Cầu Trường Tiền xa lắc sáu vại dài
Khói sóng hoàng hôn – Lòng chợt ấm chiều nay
E ấp nón bài thơ, thướt tha tà áo dài Đồng Khánh
Gót viễn xứ, chiều Cố Đô lành lạnh
Dạ nhuốm vui, khóe mắt rịn giọt sương
Gác trọ nghèo lóng gà gáy tha hương
Bóng nhòa nhạt hắt lên tường cô độc

Cuộc chinh chiến lê chuỗi ngày thảm khốc
Tình vù bay, cắt ngang dọc bạn, thù
Giữa trưa hè sụp bóng tối âm u
Lá lả tả dù ngày thu chưa tới
Trời đất rộng bom cày đạn xới
Màu áo xưa bay vội đỉnh mây mù
Cấy đông ken đêm lạnh hoang vu
Nơm nớp sợ trận đổ dù, phục kích
Cô gái quê cầm lồng đèn, ôm tập sách
Lớp i tờ - Trường dừng vách lá chằm
Tai ngóng nghe đạn pháo réo gầm
Miệng lẳm nhẳm thì thầm bài mới học
Gọn trang phục, gọn chân tay đầu tóc
Có mơ gì cái hình vóc thướt tha
Bọc lụa nhung ngũ sắc của Hằng Nga
Chiếc áo dài là tinh hoa nét đẹp

Đã hết rồi hận thù và sắt thép
Nới rộng tay làm mà vẫn hẹp miếng ăn
Đời đương cần lưng thớt bắp tay săn
Thiên hạ nghĩ: “Đẹp đâu bằng có ích”
Quần chặm vá, mảnh áo thô nặng trịch
Dép kéo lê la thanh lịch đời người
Chóng qua rồi cái thập kỷ bảy tám mươi
Vũng nông hẹp, ta khóc cười lặn hụp
Xó bếp vắng, con chó già ẩn núp
Chường mặt ra sợ bị chụp, bị vồ
Cài chặt then, sợ ruồi muỗi bay vô
Gặm nhắm mãi khúc xương khô meo mốc
Cô giáo trẻ bước vào lớp học
Bận quần tây, áo cộc hở mông đùi
Chiếc áo dài ơi! Ta tiếc mãi khôn nguôi
Sống giữa đám mù đui nghệ thuật
Kẻ hiểu biết lặng câm – Mà nỗi lòng u uất
Người ngu si theo lốc trốt cuốn đi
Dạ, dạ, vâng lòng chẳng nghĩ suy
Dạ non nớt biết gì là nét đẹp

Óc hủ lậu, được một thời cũng đẹp
Bay xa rồi cảnh mắt khép tay che
Mở toang hoác cửa ra – Gió lộng tư bề
Bốn biển năm châu - Lối đi về muôn nẽo
Đã mười năm theo chân người lẻo đẻo
Nay rực rỡ hào quang thần diệu giống Tiên Rồng
Thổ Cẩm muôn màu, gấm Thái Tuấn, lụa Hà Đông
Đưa lên đỉnh chiếc áo dài của giống dòng Lạc Việt

Hải Chu 08-03-2002


Thứ Bảy, 16 tháng 5, 2009

LB028- Viếng Lão Mai

Viếng Lão Mai

(Lão Mai, Bạch Hạc: bút hiệu Gs Mai Đồng Ấu)

Bây giờ Xuân, hãy còn Đông?
Mà nghe sương nặng giọt ròng rã đêm
Phù vân, ngã bóng bạch kim
Bơ vơ non Dĩ, lòng mềm nổi trôi
Mưa nguồn theo lái về xuôi
Bèo mây tan hợp phương trời nào đây?
Lợp lều nát lá thưa cây
Máu loang chân nứt tay chai khổ hình
Mưa đêm thánh thót liếp mành
Áo đơn sờn gáy, ta mình, mình ta.
Tình thân bỗng hóa người xa
Bao năm dành dụm, lửa nhòa khói xanh.
Bỏ, thương – vương, cùng tội tình
Bấy nhiêu khổ lụy một mình riêng mang
Đạn bom chực sẳn lớp hàng,
Nét hào hoa vút thênh thang mây trời.
Về đi thôi! Về đi thôi
Bút nghiên chẳng nợ, ngậm ngùi đời ta
Nửa đời giăng mắc phong ba
Dẫu mai sương điểm vàng pha lối mù
Não lòng nặng lá mưa thu
Môi mềm nước mặn bay vù cõi Xuân
Nước non đồng bịnh tương lân
Đời ta ai khóc? Ngại ngần khóc ai
Nhặt thưa tâm cảnh hòa hai
Tân giang ngôn tự canh dài ca ngâm
Đất người, may gặp tri âm
Xua tan dâu biển, cát lầm đi thôi
Hoa vùi cát lở sông bồi
Thân tàn chí cả mây trời còn vương
Một chiều thăm cảnh viễn phương
Trải hoa mặt đất đượm hường cành xuân
Chân rời lòng luống bâng khuâng
Đào hoa xóm vắng ân cần tiễn đưa
Dặm dài bóng đổ cành thưa
Thi đàn xướng họa hẳn chờ một mai

Huyền Hạc, 1982

(Kỷ niệm ngày dự đám cưới Mai Hoàng Long ở Châu Hòa)


LB027- Vô Đề

Vô Đề

Quen người xa lạ nơi nầy
Vuốt ve lời quỉ mặt dày cuội trăng
Đêm dài mất ngủ trán nhăn
Bụi thời gian phủ khô cằn tóc sương
Xe tàn gỏ nhịp dấu sương
Đời thay đổi lắm - Ngẫm dường chiêm bao

Hải Chu, Sài Gòn 1995, đi dạy về khuya.


LB026- Đi Với Thời Gian

Đi Với Thời Gian

Hoa đường nở rộ cành sung
Ngày tàn năm cũ ngượng ngùng đi qua
Vết chai hằn cứng tay ngà
Chuông chiều lơ đãng ngân nga giọt trầm
Sống liều cõi tạm phù vân
Lửa hương nứt rạn dấu chân luân hồi
Tinh mơ tóc mới rẽ ngôi
Hoa kia lần lữa cũng rồi lợt hương
Gót bơ vơ vấy bụi đường
Mùa hè trái rụng bốn phương gió lùa
Vô tư lũ trẻ cợt đùa
Giẫm lên mơ mộng từng mùa thờ ơ
Trăng sương đêm quạnh hững hờ
Màu thời gian đà xóa mờ ngấn son
Quạnh hiu gót rổ chân mòn
Dửng dưng quen lạ, ai còn đón đưa.

Hải Chu, Phú Hưng 06-1979

LB025- Nai Tơ

Nai Tơ

Nai tơ thức giấc ngỡ ngàn
Phù sa nước lù sóng tràn lên khe
Tần ngần quán gió ngồi nghe
Chiều xuân chớm dậy rụt rè phấn hương
Tơ lòng mở cổng thiên đường
Chân son giẫm đám bụi hường thênh thang
Tim mơ trăm ngọc ngàn vàng
Muôn con suối mộng ôm quàng bước em
Thế rồi thu rụng sương êm
Xếp chồng bao lá ướt mềm nhũn mưa
Mặt trời bóng lợt nắng trưa
Hắt hiu đỉnh tụ mây mờ giăng ngang
Cội cây xơ xác lá vàng
Bơ vơ tám cõi hỗn mang trăng cài
Lối về tắt nẻo ngày mai
Hoàng hôn chập choạng thở dài buồn thương
Lạnh căm xa lạ bốn tường
Gió đông về ngự con đường cquan
Thiêu thân bám ngọn đèn tàn
Cho vui một chút-Địa đàng âm u.

Hải Chu, Phú Hưng 12-1977

Thứ Sáu, 1 tháng 5, 2009

Đường024- Mừng Xuân

Xuân Hy Vọng

Chào đón “Mai đồng” thay thế Kha
Ngàn mai lộng lẫy, rợp rừng hoa
Thương trường tấp nập, tăng hàng hóa
Công nghiệp rộn ràng sản phẩm ra.
Pháo nổ rượu nồng người phấn khởi!
Cờ bay điện sáng cảnh chan hòa.
Năm nay chuẩn bị sang năm tới,
Âu Á cộng đồng thịnh nước ta.

Bá Trung, Xuân Giáp Tuất


Theo vận “Xuân Hy Vọng”

Bèo bọt phù sinh kiếp lạng kha
Ham chi vật chất chốn phồn hoa ?
Tình vờ ngao ngán tìm phương lánh
Nghĩa giả chán chường kiếm nẻo ra
Cây đá anh em chơn tánh vẹn,
Cá chim bầu bạn phác tâm hòa
Hơn thua phó mặc theo dòng nước
Danh lợi không màng, bạn biết ta.

Thạch Trung, mồng Năm Tháng Giêng Giáp Tuất

I- Mừng Xuân

Giấc bướm mơ màng mộng bách kha
Pháo đâu nổ rộn giục ngàn hoa
Mới hay Trừ Tịch đêm nay tới
Nào biết Giao Thừa lát nữa ra
Hoa gấm lân đi kình ngạc lặn
Nước non phụng gáy nghĩa nhơn hòa
Chơn thành chúc phước mùa xuân đến
Thắm đượm tình nhau bạn với ta.

Huyền Hạc, 1994

II- Đáp Thạch Trung

Hồn Trang hóa bướm giấc Nam Kha
Có nghĩa gì đâu gió giỡn hoa
Lặn hụp ao tù không lối trốn
Giày vò chuyện tục chẳng đường ra
Cội tùng rêu mốc chơn Huỳnh Thạch
Cụm đá trăng in sáo Thể Hòa
Khương Tử bảy mươi đeo ấn soái
Lẽ nào vận bỉ bạn cùng ta

Huyền Hạc, 1994

Đường023- Thợ Rèn

Thợ Rèn

Thân ái tặng anh Bá Trung

Ì à ì ọp sắt dằn đe
Gió lửa đùa nhau hực đỏ hoe
Gân lực búa thầu tròn hóa giẹp
Luồng hơi ống bễ khịt rồi khè
Nhân tình ấm lạnh thây bầy trẻ
Danh lợi bon chen mặc cống nghè
Sắt thép trui rèn ngâm mút chỉ
Thử chơi một phát! phải kiêng dè

Huyền Hạc, 1982



Đường022- ...Quảng Thành Tử

Tặng Quảng Thành Tử**

Pháp thuật vừa thông phản tức thì
Lòng heo dạ chó có ra chi
Tuyệt chiêu lỡ dạy phường vô sỉ
Bửu bối lầm giao đứa bất nghì
Chiếc ấn “Phiên Thiên” thầy độn thổ
Lưỡi cày Võ Kiết tớ tan thi
Quảng Thành beo gấu còn chưa thấy
Mắt thịt Ân Giao biết, dễ gì

Thạch Trung

** Theo truyện Phong Thần: Quảng Thành Tử
truyền Phiên Thiên Ấn đánh bạt được núi
cho Ân Giao, bị học trò phản dung ấn đánh lại thầy,
QTT phải đôn thổ mới thoát được. Sau Ân Giao mắc
lời thề bị Lưỡi cày của Võ Kiết xóc qua mà chết như
lời thề với thầy lúc hạ san



An ủi Quảng Thành Tử

Giận quân ăn xổi lại theo thì
Chà đạp tình người có xót chi
Trở mặt lừa thầy, đồ bất nghĩa
Thay lòng phản bạn, đứa vô nghì
Phép bùa cắp trộm đâu là phép
Thi thể tan rời chẳng phải thi
Đệ tử Ngọc Hư đâu có sợ
Trèo thang thứ cóc có ra gì

Hải Chu 19-03-1996


Mặc Ai Lỗi Đạo

Thuận thảo bền lâu, nghịch tức thì!
Thâm tình thôi hết, có còn chi
Trịnh Hâm dẫu đó đành sai nghĩa
Tử Trực ta đây chẳng lỗi nghì
Nhớ thuở xum vầy còn vịnh phú
Bây giờ tan rã mới làm thi
Thói đời đen trắng không lường được
Tìm bạn tâm giao, há dễ gì ?

Bá Trung


Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2009

LB024- Mùa Xuân Dậy Thì

Mùa Xuân Dậy Thì

“Sương sẽ rụng chực tràn lên khóe mắt
Khi, em ơi ! Thời tiết chớm vào Xuân”

Chớm xuân rắc giọt mưa hồng
Chồi non nẩy vội, ngại ngùng cỏ tơ
Đồi trơ cát bóng năm xưa
Rong rêu mở hội, một giờ đổi thay
Vờn quanh mép cỏ sương bay,
Khe âm u hở, then cài dấu in.
Hoa sơn dậy, đất chuyển mình
Tròn cây căngg nhựa, địa hình nhấp nhô.
Bãi bằng cao vượt nên gò,
Bầu sườn núi dựng, cánh cò giăng ngang..
Con ong hút mật vội vàng,
Dập dìu bóng bướm ẩn tàn lá râm.
Mây trôi suối tóc đen giầm,
Trái xoan nở, búp nụ tầm xuân xa .
Trăng vờn hương bưởi ra hoa,
Ngất ngây sỏi vụn la đà gió theo.
Tâm tư mây ngụ đặc đèo
Trông vời đôi nhạn - buồn thiu - cuối trời.

Huyền Hạc, 1984



LB023- Tiễn Một Người

Tiễn Một Người

“Hàng cây đứng lặng rưng rưng lá
Gió lạnh đưa đi đến nẻo nào”

Dế xa dành một dư thanh
Sầu tư điệu tiễn ngày xanh em tàn
Dây ta nắn nót cung đàn
Hoà theo nhịp nắm đất vàng ván thiên
Nằm đây em trút ưu phiền
Lên chân châu chấu lê miền cỏ hoang

Hải Chu 05-1982


LB022- Mấy Hôm

Mấy Hôm

Riêng tặng những người đồng hành bất hạnh
Tặng Khương Vũ Thiên Tân

“Ôi xã hội, những búa rìu gớm ghiếc
Bao vây ta và hủy diệt tình người
Ta không chết - chẳng khi nào ta chết
Mà hiên ngang ngạo nghễ giữa cõi đời

Hải Chu


Mấy hôm, gió chực ngoài song
Đợi ta ra, thổi giá đông vào hồn
Mấy hôm trăng đứng bồn chồn
Chờ ta về, rọi áo mòn phong sương
Mấy hôm mưa phục sẳn đường
Mong ta đi, tặng bốn phương mây mù

Hải Chu, 12-1993



Chủ Nhật, 19 tháng 4, 2009

Mới030- Tiếng Ca Du Tử

Tiếng Ca Du Tử

Du tử hà thời qui?

Hải hồ mòn gót ta đi mãi
Bạc áo phong sương mấy độ rồi
Một sớm chim bằng nghiêng cánh mỏi
Thẩn thờ nhả khói ngắm mây trôi

Hiên vắng gục đầu ôm bóng lẻ
Suy tư vầng trán nếp hằn sâu
Nửa đời phiêu lãng ai tri kỷ
Bạc tóc oằn vai một gánh sầu

Tâm sự mang mang hồn cố quận
Bềnh bồng mây nổi thấy gì đâu
Tóc sương đôi mái, ai nương cửa
Mòn mỏi trông con mắt đỏ ngầu

Du tử một đi chưa trở lại
Bên cầu nét chữ đã rêu xanh
Tha hương khắc khoải đau gan vượn
Số kiếp long đong mộng chửa thành

Tay trắng ngày về xin khất lại
Tương phùng buổi ấy hãy còn lâu
Một mai chí lớn không thành tựu
Vẫn hẹn sông hồ một cánh âu.

Thạch Trung, Rạch Miểu 1972


** Vườn Quỳnh




Mới029- Gió Mưa

Gió mưa

Nửa đời sống mỏn gió mây đưa
Cơm áo lăn thân chẳng lọc lừa
Sự nghiệp trắng tay, đầu điểm trắng
Trời chưa cho chết, não nùng chưa?

Huyền Hạc 04-1986


Mới028- Quê Xưa

Quê Xưa

Chân xưa trở lại chốn quê này
Hạ trắng thu vàng mấy đổi thay
Lối nhỏ ngỡ ngàng hương viễn khách
Thềm rêu xanh sắc sợi mưa bay

Cỏ đê từng trải mùi dâu bể
Thoáng điểm đìu hiu nét úa gầy
Đưng lác đỏ đầu đồng nắng nẻ
Trời xanh, xanh thẳm, lá diều bay

Từ độ bẵng quên thuyền lãng bạt
Chồn chân gió lạnh réo đêm dài
Nền ẩm, bóng đơn vờn vách lá
Lần qua cầu nhỏ - khóm mai gầy

Mấy năm đất đỏ dày râu tóc
Mấy năm trui lửa chai bàn tay
Rào trước thênh thang bong bí rợ,
Lặng lẽ mùa xuân ngự cõi ngoài

Điệu ru tuổi nhỏ giờ im bặt
Phên lá buồn thiu – khúc lạc mai
Tiếng thở dài len cơn ác mộng
Đêm qua đầu bạc - một mình hay.

Huyền Hạc, Phú Hưng quê nhà 09-1977

(Vườn Quỳnh 1)




Mới027- Thiên Thể Khô Cằn

Thiên Thể Khô Cằn

tặng người đầu óc bảo thủ

Đất sỏi cứng khó tưới thành màu mỡ
Đá khô cằn khó tạc nét hoa văn
Định kiến thiên thu là lượng cát sông Hằng
Ước mộng đó một thiêng đường dang dở

Hãy bay bổng đi xa, coi như tròn duyên hết nợ
Kéo dài đời chi- Muôn kẻ sợ, chẳng người thương
Trong tâm tư ôm hình ảnh thiên đường
Như mây khói tất cả dường ảo ảnh

Thiên thể xa, thế giới của lớp người bay bằng đôi cánh
Đi trên mây và uống những giọt sương
Còn cõi người ta, hoang lạnh lửa tình thương
Tay chai rạn, áo hờ sườn đêm lạnh cóng.

Rao giảng tình người mà sao tim lại rỗng
Nói chuyện năm trên, mắt còn đọng hận thù
Lời ngọt ngào đồng vọng giữa hoang vu
Ta chua xót giữa mịt mùng sa mạc.

Hải Chu 06-1995



Mới026- Tình Đời

Tình Đời

tặng người bạn thân đi nước ngoài

Nồi ốc lạt, đổ thêm gàu nước lạnh
Đời trắng rồi, vôi làm bạc thêm ra
Hương viễn xứ có sợ gì cô quạnh
Cứ đi đi, cô độc một mình ta

Người đi rồi, như gió thoảng mây trôi
Coi như chết một người quen thuộc
Trán khắc suy tư, tay vàng khói thuốc
Ta nhớ người- Ta, người cũng quên thôi

Ta chỉ tiếc hay tiếc nhiều cũng vậy
Tiếc ngày đi, ta bịn rịn lúc chia xa
Địa chỉ của ta, đã quăng vào sọt rác
Nghĩ mình ngu, uổng chén tiễn quan hà.

Hải Chu 08-1993




Mới025- Bùn Bụi Vô Tư

Bùn Bụi Vô Tư

Riêng tặng kẻ còn giữ lương tri

1- Mây sà xuống làm cơn mưa vụng dại
Gió theo về xô dẩy gót chân non
Bùn bụi đường dài no tròn khổ ải
Ngùi thương ai còn lại ngấn son mòn

2- Thời gian vô tư lấn dồn hào quang cũ
Ta với tay cao giữa lũ thiêu thân
Bước sờ soạn trả nợ lần cơm áo
Chút tình người tắt lịm tuổi thanh xuân

Hải Chu 03-1996




Mới024- Nhớ Xưa

Nhớ Xưa

Án sách buồn thiu, rêu chợt lạnh
Đèn xô bóng lẻ, mái nhà xiêu
Mưa dột, ẩm nền, mùi mốc dậy
Sống như đèn lụn, chẳng người khêu
Trăn trở canh dài, đêm lại đêm
Bụi bùn bê bết gót chân mềm
Một thời bé dại mờ sương khói,
Bạc tóc, mưa hoài thấy khổ thêm.

Hải Chu, Mõ Cày 1992




Mới023- Cuồng Ca II

Cuồng Ca II

Mảnh bụi vụn-Không, thời gian vô cùng rộng
Ôi! Hư vô là tiếng vọng cõi ngàn năm
Ngày hội ngộ, tiếng thề lồng tóc ngọc
Lối về xưa trăng cũ mọc trên cành

Hải Chu 04-1979


Mới022- Ừ Thì Say

Ừ Thì Say

Tặng những thằng bạn buồn như mình

Ừ say, Đúng, để quên niềm thế sự
Say thiệt rồi, rượu ướt mắt nhòe cay
Ừ say! Mấy trận rồi ? Quên mất
Đời có vui buồn- Trối kệ bây

Mỗi lúc hớp chơi dòng nước đắng
Cố quên bèo bọt một hình hài
Nhìn lại bàn tay, tay vẫn trắng
Mắt trắng bao lần thấy đổi thay

Ừ say, lủi thủi lối đi về
Đường cũ sao mà thay đổi ghê
Chân lạc mắt đui, mờ mịt tối
Mơ hồ tiếng dế- Tỉnh hay mê

Đêm qua, quán lạnh, ta đơn chiếc,
Vách lá đèn chong hắt bóng gầy
Bạn lứa vây quanh, ruồi với muỗi,
Một mình thù tạc với ly chai.

Giờ đây chán ngắt mùi men đắng
Nó chẳng làm quên vị đắng cay
Chẳng phút nào vinh, sao lắm nhục
Quên đi như gió thổi qua tai.

Lơ mơ cửa sổ bóng mây qua,
Quên chuyện gần đây, bỏ chuyện xa.
Đầu gối trên tay, ngon giấc ngủ
Thềm rêu trăng giải ma6’y canh dài.

Hải Chu
Phú Hưng, quê nhà những ngày buồn




Thứ Bảy, 11 tháng 4, 2009

LB021- Dấu Hoang

Dấu Hoang

“Trời rộng dặm dài lầm lũi bước
Nhìn quanh chỉ thấy bóng theo mình”

Tà dương. rêu nhuộm lũ tùng
Chênh vênh sương rụng ngại ngùng dấu in
Vàng phai lá trải lặng thinh
Phân vân nào biết bóng mình có theo
Giang hồ bùn bụi đà nhiều
Đêm nay trăng lạnh buồn thiu dặm dài

Hải Chu, Phà Đêm từ Mõ Cày về, 1992


LB020- Chợt Hứng

Chợt Hứng

Lãng xa giấc bướm đồi mai
Vứt đi, quên hết những ngày ngược xuôi
Đêm quê nửa giấc bùi ngùi
Tạnh mưa hiên vắng mây trời lênh đênh
Về đây, áo rách người quên
Cười chi bìm phủ lấn nền chùa hoang
Khổ qua, mướp nở bông vàng
Búp cờ, bắp trổ con chàng nách cây
Vụng tu, nửa kiếp tù đày
Nghe lê rất chậm qua tay giọt sầu
Sống già chắc khổ còn lâu
Lợt hương rã phấn cuối đầu suối mơ
Trăng nghiêng cành cội xa bờ
Minh mông con nước bơ vơ nhớ nguồn

Hải Chu, Phú Hưng Quê Nhà Xuân 1078


LB019- U Uất

U Uất

Ngày trôi hoang lạnh tịch liêu
Ta ngồi đốt lửa đìu hiu bên trời
Chờ đây, quỉ tốt gọi mời
Tiếc chi lá rụng giữa vời trái ngang
Măn mê củi ướt tro tàn
Máu tim rỉ rịm, khóc tràng cười điên
Lạy van tất cả ưu phiền
Hãy buông tha kẻ lỡ điên vì đời
Đừng cho vây hãm quanh tôi
Nhỏ nhen ích kỷ để đời ấm hơn

Hải Chu, Quê Nhà 02-1978


LB018- Tặng Người Khai Phá

Tặng Người Khai Phá

Ta về đất chết hoang vu
Đường mòn cỏ mịt, chân mù rũi may
Rởn gai ốc, tiếc hình hài
Trái bom trốn nổ lâu nay im lìm
Đưa người xấu số đi tìm
Đê sương đọng khóe nỗi niềm nhớ nhung
Ván thiêng ướt sũng bụi bùn
Vắng tanh kỷ niệm, nát vùng máu loang
Đời em chỉ nắm đất vàng
Vô tư cô độc giữa ngàn sậy lau

Hải Chu, Tân Phú-Mõ Cày, 10-1975


LB017- Tặng Nễ Hành

Tặng Nễ Hành

(nhớ Chùa Bà&đình Đa Phước
thay bằng nhà truyền thống)


Hát chi khúc điệu Tang Lâm
Thà đui, thà điếc, thà câm muôn đời
Nhát gươm Lữ Trĩ nực cười
Ta điên mà cũng có người điên hơn
Sức nào hiểu được nguồn cơn
Thưởng âm sao nối điệu đờn Bá Nha.
Dập dình Đa Phước, Chùa Bà
Cho thời xưa cũ nhạt nhòa dấu rêu.

Hải Chu, 06-1995


LB016- Mùa Xuân Mới

Mùa Xuân Mới

Cành khô thay lá bao giờ
Trăng vàng tơ mướt phất phơ đầu cành
Rộn ràng nụ đỏ chồi xanh
Con ong mê mật, bướm vành lượn hoa
Nhựa căng mạch đất giao hòa
Phù sa trùng điệp thấm nhòa rễ non
Lô xô triều dậy sóng cồn
Gió xa réo vọng – Núi non chuyển mùa

Hải Chu, 12-1985



LB015- Mái Tóc Thề Xưa

Mái Tóc Thề Xưa

tặng người quên nếp cũ

Xuân đem chiếc én lẻ về
Hỏi em còn giữ tóc thề năm xưa
Ngượng ngùng em đáp bâng quơ
“Nước trôi rữa mục bến bờ thời gian
Chia tay, dầu cạn tim tàn
Lưng cơm nước mắt võ vàng xác ve
Nổi chìm doi vịnh sóng mê
Làm sao giữ được tóc thề ngày xưa”.

Hải Chu, Quê Nhà 01-1979



Mới021- Đêm

Đêm

Ta nghe hơi thở vụn
Lạc bến bờ thời gian
Muỗi mòng xô đổ đến
Trong nhịp thở vội vàng

Mênh mang chiều vờn tới
Ta khiếp sợ màn đêm
Dầu cạn đèn đui tối
Sao soi được nỗi niềm

Ngày mai ta sẽ chết
Đáy mộ quên thời gian
Từ lâu đời đã hết
Lặng im mớ lá vàng

Hải Chu 02-79


Mới020- Mùa Xuân

Mùa Xuân

Ao trước phất phơ hoa bưởi rụng
Bờ sau thoang thoảng gió hương đồng
Giòng giọc cành cao xây tổ mới
Vườn xanh chi chit những chồi bông

Bỏ hẳn sông hồ nửa mái tranh
Tiếc chi mái tóc chẳng còn xanh
Lo gì tay trắng sầu tay trắng
Hờn giận đời chi. Phận sẳn dành

Sáng cành lá thấp thập thò mai
Rét mướt đông kia chẳng kéo dài
Gió chướng ào về ngân tiếng vọng
Hình như trái đất vẫn còn quay

Hải Chu, Mõ Cày 1981


Mới019- Nẻo Vào Đời

Nẻo Vào Đời

tặng những thằng bạn kém may mắn
“Nous sommes condamnés à être libres”

Có lẽ đầu thai không cửa chọn
Đày ta vào lối đoạn trường chơi
Chân mù sa mạc tìm may mắn
Mờ mịt hoang vu một cõi đời

Đồng hành chẳng thấy ai bầu bạn
Sương gió đường xa ấy khách quen
Trăng quạnh thềm rêu là bạn cũ
Tay vàng khói thuốc lóa đêm đen

Trời đã ban cho ta cái chổi
Bảo phải ngày đêm quét lá đa
Chẳng giận tại mình con chú sải
Mơ gì cội quế với Hằng Nga

Lạ hoắt mặt mày người kẻ chợ
Dạy ta cười khóc kẻ nhân gian
Dạy ta nuốt lệ dầu cay đắng
Một thoáng trời vui vạn phũ phàng

Hải Chu


Mới018- Bao Giờ Ta Chết

Bao Giờ Ta Chết

Thảy im lặng, mây đùa tràn lạnh đất
Chiều không đi, chỉ chiếc lá xa cành
Em mới thấy tình yêu cao chất ngất
Lúc bấy giờ em mới biết thương anh

Rừng núi xưa giờ đã hoang vu
Con đường mòn vắng dấu chân tình tự
Mưa muộn đêm nay có còn ai tâm sự
Những vu vơ như canh lạnh sương mù

Đường gió lộng chiều nay em vấn bước
Có thả hồn về nuối cõi xa xăm
Ở nơi ấy từng mùa qua vội vã
Mỗi mùa mưa mục xác lá âm thầm

Thôi đã hết - Dừng lại thơ cùng mộng
Muôn đời sau biết có gặp cùng không
Duyên với nghiệp theo nhau hình với bóng
Đưa ta về nẻo vọng tiếng hư vô.

Hải Chu 04-94



Mới017- Dòng Đời

Dòng Đời

Mộng rơi rụng, lá vàng in cỏ biếc
Hình ngồi đây, hồn chết đã lâu rồi
Tiếc chiếc lá tràn căng mọng nhựa
Len lỏi qua từng mạch sớ cành chồi

Cơn mưa đầu mùa bỗng dưng đổ tới
Bụi lớp hàng che vụn mảnh xanh rêu
Lá nằm đó nghe hồn dâng tủi cực
Loài dế giun giẫm nát một đìu hiu

Theo nước mưa về con nhái bén
Bọt mép sùi, chúa tễ một vùng hoang
Ngồi ngự trị trên cành xương lá mục
Vì đổi thay là nhịp thở của địa đàng.

Hải Chu, 1979

(Năm thất mùa không đóng nổi Thuế Nông Nghiệp)

Mới016- Cõi Người Ta

Cõi Người Ta

Thân ái tặng người đời

Ta không mơ mình làm viên sỏi vụn
Ngất ngưởng trên chóp núi mây cao
Trang điểm cuộc đời bằng lớp xanh rêu lún phún
Sợ mai kia luồng gió lạnh xô nhào
Nằm đáy nước, em hờn đời cay nghiệt
Lớp rêu buồn rã mục ngấn son xưa
Nghe dĩ vãng hiện về em hối tiếc
Quãng đời qua, thà sống trọn nghĩa nguyên sơ
Hận thù no làm mắt em cay đỏ
Chút hư danh em bỏ ngỏ tình người
Chân giẫm chông gai em ngỡ đường êm lộng gió
Cõi trăm năm còn đó tiếng mua cười

Hải Chu, 03-2002




Mới015- Thú Quê

Thú Quê

1- Đuôn chà là béo ngậy
Chảo mỡ sục sôi - Chấy
Tính chẳng mua rượu sao:
- Bậy.

2- Chén ly lóc ngóc bày
Bốn đứa vây cái chai
Cà nướng giằm hành mỡ
- Say


Bùi Thanh Kiên



Đường021- Hoa Tàn

Hoa Tàn

Chớm nở vội vàng úa rủ luôn
Lời ai thổn thức nỉ non buồn
Ái ân lạt lẽo lơi chân bước
Tình nghĩa mỏng manh mỏi cánh chuồn
Nát ngọc phai hương vì đắm đuối
Chìm châu vữa nhụy bởi mê cuồng
Đời hoa tan tác trong mưa gió
Huyền ảo trăng mờ suối lệ tuôn

Anh Tài (Lê Dân)



Họa Bài: Hoa Tàn

Bước không bén đất vội vàng luôn
Trán đẫm mồ hôi nặng kiếp buồn
Rượu cốt dương nồng co cẳng vọt
Trà hương còn đậm lẹ chân chuồn
Cơm ăn áo bận lo đà đuối
Túi trống tiền lưng chạy phát cuồng
Tri kỷ xin thương mười bỏ chín
Đêm tàn tim lụn tóc sương tuôn

Huyền Hạc, 1993 (20 Giêng Quý Dậu)


Đường020- Về Thăm Trường Cũ

Về Thăm Trường Cũ

Màn mây đổi sắc nắng rồi mưa
Bụi lấp thời gian nét mực mờ
Chân bước ngậm ngùi đường lối cũ
Lòng nghe vắng ngắt bướm hoa xưa
Lạnh lùng sương khói mây trời thảm
Hờ hững tàn cây giọt nước lưa
Bèo giạt sóng đùa tan với hợp
Trăng tròn rồi khuyết tự ngàn xưa

Hải Chu, 1982-Lần trở về đầu tiên sau 1975



Đường019- Một Phút Tâm Tình

Phản Đối Tôi

Vợ nhà phản đối tôi chơi thơ
Rằng: chuyện mất công, chuyện vẩn vơ
Lép nhép lâm râm hình quẩn trí
Lờ đờ lững đững dáng bơ phờ
Mơ mơ tưởng tưởng quên ăn ngủ
Viết viết bôi bôi bỏ giấc giờ…!
Tiền gạo đủ đầy đời sống khỏe
Văn chương ọp ẹp, đói nghèo xơ.

Bạch Hạt

(Mai Đồng Ấu)


Một Phút Tâm Tình

Thơ thẩn vào ra, thẩn với thơ
Nửa đời ngang trái chuyện vu vơ
Canh chầy gối mộng, hình khô héo
Biển thẳm cồn dâu, tóc bạc phờ
Lộn mối tơ vương tằm mấy kiếp
Đè mây gió lộng, chuyện bao giờ
Giận đời bạc bẽo, trò ăn mít
Múi nuốt, hột lùi, chẳng ngó xơ.

Huyền Hạc, 08-1990

Đường018- Đôi Cu

Đôi Cu

Trên tàu dừa ấy có đôi cu
Dưới ánh bình minh rủ rỉ gù ...!
Trống ọi mồi ra kề mỏ đút
Mái chồm ngực tới ghé mồm thu
Y liền nằm xuống phơi phơi đít
Hắn vội nhảy lên đánh đánh đu ...
Rồi rỉa lông nhau âu yếm quá!
Nắng vàng rạo rực, gió vi vu ...

Bạch Hạt

(Mai Đồng Ấu)



Đôi Cu

Cảnh buồn khéo vẽ chuyện chim cu
Con trống xù lông, cổ gật gù
Ong mật vòi xe buồng phấn nhị
Vành khuyên má ửng sắc mây thu
Khe sâu nước rỉ, choàng lưng ấp
Mô thấp rêu mòn, trải cánh đu
Bờ lá lao xao, mi chẳng chớp
Mơ màng tai thoảng gió vi vu.

Huyền Hạc, 08-1990





Đường017- Không Đề

Không Đề

(Bài thơ có thể đọc thuận nghịch)

Buôn bán phải đâu nơi phố hè
Chật đông qua lại nghẽn người xe
Run run bé lạc lề chen quán
Loạng choạng già xiêu gậy đá ve
Buồn thấy khách tham quam ngỡ ngỡ
Chán nhìn người chiếm lộ te te
Luôn làm đẹp rạng ngời thành phố
Xuân đón chào thanh sạch bạn nghe

Thạch Trung


Bài Họa

1

Gồng gánh bán buôn chốn phố hè,
Nép lồ chèn nhét nghẹt người xe
Vun đầy mặt lộ giày chen dép
Ních chật lòng lề lọ với ve
Phồng má chuốt trau lời ngọt lịm
Thấy người bưng hốt chạy te te
Đồng tiền để cực thân cho lắm
Mong mãi trống đường có chịu nghe

Huyền Hạc

Bài Hoạ

2

Thành thị dạo chơi gắt nắng hè
Mát trời giong ruổi những người xe
Xanh cây mát gió vờn hoa lá
Mướt sắc cao cành rộn tiếng ve
Giành lối rú ga lao vút vút
Chớp đèn qua trạm vượt te te
Thanh bình phố chợ dân cư lịch
Xanh ngọc bích lừng nổi tiếng nghe

Huyền Hạc, 20-01-1994

Đường016- Đầu Năm Khai Bút

Đầu Năm Khai Bút

Thơm tho bán hạ, ngất ngây xuân
Khai bút - ừ, “khai” - cốt đủ vần
Ý thánh cao siêu, ăn cậy miệng
Câu thần trác tuyệt, đứng nhờ chân
Rừng sâu hí hửng mai** đi guốc
Hang tối xênh xang, cóc diện quần
Đắc ý vinh râu, thơ thách họa
Thi lâm đâu sá cái trò “truân”

Tú Phang

** Mai: Khỉ


Đầu Năm Khai Bút

Bút khai chuột chết cũng mừng Xuân
Mách qué nôm na ghép lựa vần
Thực luận chẳng ra trò thực luận
Chân đầu nào biết luật đầu chân
Nhái sùi đùn bọt kêu om giếng
Thầy sướng sần da, bận trái quần
Lên giọng thầy đời, nghe phát ghét
Mùi đâu khăm khẳm cái “quèo truân

Huyền Hạc, 03-1996

Mừng Lão Làm Thơ

Bảy mươi tuổi vẫn rộn lòng xuân
Mở hũ văn chương ghép lựa vần
Rặng mãi phờ râu tìm đối chữ
Ngồi lì đứng buổi xót tê chân
Mãng ham danh hão toe mồm cho
Lỡ lạc đường mê, tét ống quần
Lá mít, lá đa bày mấy đống
Trâu già chi nệ bước gian truân

Huyền Hạc, 03-1996

Đường015- Chùm Gởi ...

Xướng: Chùm Gởi

Vít đốc gật gù ngự ngọn sao
Váo vênh liếc mắt chỉ mình tao
Thân nhờ đặc gật hoa, kiêu hãnh
Kiếp gởi xanh um lá, tự hào
Nhựa hút huênh hoang chê cội thấp
Cành đeo, xấc xược ngỡ mình cao
Ừ xem vút vắc chừng bao thuở
Cây chủ rời xa, sống được nào

Thạch Trung




Họa: Chùm Gởi Trả Lời

Sống nhờ thằng ngốc, có làm sao
Dõ mỏ vô chi chuyện của tao!
Khỏi động móng tay, người tán thưởng
Cũng dư nguồn nhựa, kẻ hô hào
Gốc thêm vẻ đẹp, ta càng đẹp
Cây vượt tầng cao, tớ cũng cao
Cố bám cố đeo mà rút rỉa
Lá tươi mơn mởn, sướng không nào

Huyền Hạc, 24-03-1996

Thứ Ba, 7 tháng 4, 2009

LB014- Đến Rồi Đi

Đến Rồi Đi

“Ý người sóng nổi mây trôi
Nẻo xa lại đến, đến rồi lại đi”
(Phạm Thiên Thư)


Vọng về từ cõi xa xăm
Vô duyên hạt bụi rớt nhầm hỗn hoang
Hồn say còn nuối thiên đàng
Hóa thân duyên kiếp theo đàn giả chân
Lăn mình trong cõi phù vân
Chân mù lối ảo ngại ngần bến mê
Quên vườn quỳnh nẻo đi về
Mong manh sợi khói tiếng thề trăng sương
Vương tay ôm bóng vô thường
Gối tay – Hư ảnh ngủ giường bèo mây
Nằm nhờ quán gió đêm nay
Ngựa quen cỏ lạ rồi mai đăng trình
Gót thầm ngỏ cụt lặng thinh
Áo cơm đổi sắc tóc xanh ngày nào
Nhập nhằng giả thật chiêm bao
Hoàng hôn mòn mỏi xanh xao ráng chiều
Mặt trời mất sáng tịch lieu
Rong rêu chìm giữa ngọn triều phù sinh

Hải Chu, 03-2002




LB013- Hơn Nửa Đời Điên

Hơn Nửa Đời Điên

Nửa đời mang tiếng đại ngu
Nửa đời khép chặt ngục tù u mê
Gió đâu! Gọi mãi không về
Thổi tan đi bóng tối đè thân ta

Hải Chu, Mõ Cày 1993


LB012- Quên

Quên

Thân ái gởi Cù Vấn Thiên

Buồn vương ngất đỉnh mây xa
Nhớ em ngày vội vã nhòa phấn hương
Áo về còn đọng bụi đường
Thăm nhau, ta đội mù sương hoa đèn
Lạnh lùng kẻ chợ người quen
Quén vun nấm độc, cỏ hèn mọc lên
Cao vời mây ngự bên trên
Kể chi cay đắng, hãy quên cuộc đời

Hải Chu, 03-1996


LB011- Bài Ca Độc Hành

Bài Ca Độc Hành

“Nhập Thế Cô Thân Thiên Lý Mã”
(Thơ cổ)


Óc tàn chia vụn tâm tư
Mây trôi theo gió đau nhừ con quay
Tịt mù nẽo tới tương lai
Đàn cừu Panurge miệt mài xác thân
Ngục tù vướng mắc ống chân
Muốn siêu thoát cõi mê trần được sao
Mưa buồn giọt đọng sầu đâu
Chân hoen cát bụi, mái đầu sương chan
Sông sâu vắng bóng đò ngàng
Bến xưa chiều muộn rủ tàn cây da
Nét gầy lệch bóng trăng sa
Trông em vàng võ, thương tà áo xưa
Khóm mai gầy, mỏi vó lừa
Trăng hoàng hôn nuối, đêm vừa lên ngôi

Hải Chu, quê nhà Phú Hưng, những ngày buồn 1979


LB010- Ta Và Em

Ta Và Em

Tặng CÙ VẤN THIÊN

Không người chuốt rượu để say
Ngoài em, còn có một ai trong đời
Đường trăng cứ mãi rong chơi
Tai đâu nghe được một lời dịu êm
Mai nầy, ngừng máu giữa tim
Ta, em cứ nghĩ cánh chim gãy rồi
Mình em đi biển mồ côi
Buồm xô gió lộng, mịt trời bão going
Thương gì không? Nhớ gì không?
Thương em lận đận bụi hồng như ta

Hải Chu, 04-1994




LB009- Thơ Gởi Chị

Thơ Gởi Chị

Kính gởi chị hai, người chị cực khổ với em nhiều nhất

Bơ vơ phố úa bóng chiều
Thơ cho chị gởi đìu hiu tháng ngày
Lăn cuồng một kiếp con quay
tằm chưa hết kiếp đọa đày, chị ơi!
Đèn mờ bóng vách rã rời
Kim giờ tí tách giọt thời gian qua
Trở trăn, sang tóc bạc ra
Gió đùa bụi quét cho già kiếp trai
Mảnh đời khép lửng vòng tay
Gạo châu củi quế, ngày mai mịt mờ
Gù lưng đạp chiếc xe rơ
Lửa tay thuốc lá đêm quờ quạng đêm
Mùi hôi rác bốc trước thềm
Chậu thau hứng nước mưa đêm lại ngày
Áo cơm đeo thẹo luôn tay
Quên đi tên tuổi, mệt nhoài tâm tư
Ở đây hang xóm thờ ơ
Người quen kẻ lạ hững hờ đi qua

Hải Chu, SàiGòn 07-1996




LB008- Lưu Đày

Lưu Đày

“Ôm mộng ảo, sống đời không có thật
Bao giờ ta yên nghỉ dưới mồ sâu”
Hải Chu


Thiêng liêng ngự giữa mây mù
Đẩy ta ra, tặng áo tù trăm năm
U mê giả tưởng ôm chầm
Hiện thân giọt nước rơi lầm bãi hoang
Bao nhiêu bùn bụi trần gian
Cố đeo bám riết để làm đục thân
Nổi trôi cõi tạm phù vân
Nghiệp duyên mỗi lúc lại dần nặng thêm
Gian truân xơ cứng tóc mềm
Lang thang lưu diễn hết đêm lại ngày
Kịch “Trò Đời” đã sẳn bày
Đổi vai thay lốt, chẳng nài hơn thua
Áo cơm đeo kiếp thầy chùa
Vụng tu oan tiếng cười đùa yêu tinh
Lên rừng sám hối cầu kinh
Mấy năm khổ hạnh, thay hình ngựa hoang
Roi da in dọc hằn ngang
Bơ vơ giữa bạn, họ hàng đất quê
Gục đầu tiếng nặng lời chê
Buồn riêng ai biết, bốn bề vắng tanh

Hải Chu, Cuối 1977




Mới014- Vô Đề

Vô Đề

Như mây nước trôi dài theo năm tháng
Và em ơí! Đời cuốn mãi ta xa
Nẻo vô vọng, tàn canh ta chợt thức,
Lần lóng tay, ta chợt nhớ quê nhà.

Hải Chu 04 2002


Mới013- Ngày Mai

Ngày Mai

Không thể mãi vùi đầu vào khổ lụy
Có lúc nào anh sẽ chết xa em
Bỏ xác thân mục rã im lìm
Ta vượt thoát mọi gong kìm nhân loại

Thôi bỏ lại chuyện nhân tình thế thái
Nương mây qua gió lại cõi bao la
Ta dìu em trên lối ngọc đường ngà
Giữa mật ngọt, hương hoa mờ sương khói

Nắng quái tắt, chiều tà chưa đến vội
Lòng rộng thênh giữa cỏ nội mây ngàn
Hồn phiêu bồng trên ánh ráng chiều hoang
Bay lượn mãi mặc đường ngang lối dọc

Đã kinh khiếp một kiếp người tù ngục
Thôi già từ chổ nước độc bùn dơ
Cõ vô thường quỉ bắt chẳng hẹn giờ
Chuyện ngang trái bất ngờ xô đổ tới

Chuyện có nói không, óc ngu ta không lường nổi
Luyến lưu gì bọn khỉ đội lốt hùm
Thôi chào mi bọn giá áo túi cơm
Miệng lưỡi sắc trong bó rơm hình nộm

Con vẹt lặp những lời đã món
Bàn tay đen lớp nhung gấm phủ trùm
Ta bỏ đi mặc trê chạch rút trong bùn
Tìm mồi béo, sục lùng dòng nước bẩn

Ta ngồi chổ cuộc đời không bụi vẩn
Đại dương xanh, xanh thẳm một trời mơ
Ta nhìn em như bản tính nguyên sơ
Lòng trong vắt giữa cõi bờ vĩnh cữu

Hải Chu, 03-2002



Mới012- Hư Ảo

Hư Ảo

Ôi ! Xác bướm theo dòng mong cỡi sóng
Vươn vai lên mơ biển rộng trời cao
Vọng tưởng hư không một sớm đẹp nắng đào
Xây cao ốc trên sóng gào cát bỏng

Ngỡ tay vẫy là ầm ầm sấm động
Bước vào đời, đất trải rộng thênh thang
Nhưng em ơi ! Đời đâu phải thiên đàng
Mà em cứ miên man lầm lũi tới

Bầu trời thẳm cao xanh vời vợi
Ốc đảo xa ngoài tầm với đôi tay
Em đang mơ hạnh phúc ngày mai
Bụi bám mặt lớp dầy, trời nắng gắt

Mồm đựng cát, lưỡi em khô đặc
Tiếng thì thào, từng quảng ngắt mòn hơi
Tai em nghe tiếng vọng xa xôi
Lòng em tưởng một trời hạnh phúc

Con cò béo nhờ sống dòng nước đục
Em chỉ là con cá chốt nhỏ nhoi
Quẳng xa đi cái thú chơi chòi
Thuở bé dại mong bà tiên hiện đến

Hãy nhìn thẳng đâu là bờ bến
Mới thấy mình như ngọn nến canh khuya
Bóng tối thâm u trùm phủ bốn bề
Em tỉnh giấc, tìm lối về quá muộn

Hải Chu




Mới011- Lấp Biển

Lấp Biển

Tặng kẻ chí lớn tài sơ

Con chim nhỏ nâng niu hòn sỏi vụn
Tha đi xa, quăng biển sóng muôn trùng
Đá sẽ nổi, biển đông tràn gió lộng
Hay hư vô ? Cay đắng vẫn khôn cùng

Hải Chu, 03-1982




Mới010- Say Hay Tỉnh?

Say Hay Tỉnh ?

Riêng tặng mình.

“Đời say mình ta tỉnh”
Câu nói thật lạ đời
Giọng lưỡi đầy kiêu hãnh.
Kẻ thừa giấy vẽ voi

Phải nói mình ta say
Dẫu i cụt , i dài
Say hay sai cũng vậy
Thôi, một mình ta say

Đời thiệt tình đương tỉnh
Tính toán chuyện đảo điên
Ăn vụng khéo chùi mép
Tỉnh rụi khi hốt tiền

Khoe khoang mình vẫn tỉnh
Để trộm lắt hầu bao
Của tổ tiên dành dụm
Bằng mồ hôi máu đào

Bất tài ngồi ngất ngưởng
Tỉnh để tục khoét ăn
Bụng trống chầu no ưởng
Nào nghĩ kẻ khó khăn

Thằng ngu nói nó tỉnh
Thì ra đã tỉnh đâu
Úp mặt vào máng cám
Canh cặn che lấp đầu

Hải Chu, 01-2001




Mới009- Bóng Nắng Chiều Hôm

Bóng Nắng Chiều Hôm

Tay bở ngở đan cài làn tóc rối,
Gió qua cành, nghe nhịp nối bước thời gian.
Ngày vô duyên để nắng tắt vội vàng
Đêm khép lại giữa muôn vàn cô độc
Sương chẳng lạnh mà nghe sần gai ốc,
Cây lặng yên mà xoáy lốc quanh mình.
Ta cuối đầu, mắt khép lặng thinh,
Cố chờ đợi một bóng hình không hẹn đến.
Đêm đen rộng tưởng chừng không bờ bến
Bước mù lòa không ngọn nến soi đường
Bao người qua giẫm nát cỏ sũng sương
Ta vẫn thấy canh trường ta thui thủi
Mở tráo mắt bước xiên rừng bụi
Lẽ nào đây lần cuối ta đi
Đạn bom bay át tiếng gió thầm thì
Hỏa châu rọi cõi đen sì địa ngục
Mài sừng nhọn để gầm đầu hút
Điên tiết lên, quyết hạ gục lẫn nhau
Huy chương vàng long lánh giọt máu đào
Kẻ chiến thắng buông câu chờ hưởng lợi
Ngưng cuộc chiến, ngày non chờ nước đợi
Lòng buồn thiu vời vợi đỉnh mây xa
Những chàng trai thuở trước xa nhà,
Chẳng trở lại bên tách trà đoàn tụ
Chân mệt mỏi lê bước dài ủ rủ
Đời đang đen giữa muôn thú làm người
Ta tiếc đời, tiếc đến chínmười mươi
Sinh lầm kiếp đười ươi dân nhược tiểu
Có lúc nào dân mình chợt hiểu
Trò ranh ma bẩn thỉu bọn cuồng điên
Cái lạnh lùi xa, lòng sẽ ấm mọi miền
Bỏ thù hận - để nối liền sông núi

Hải Chu, Chương Thiện 01-69


Mới008- Dòng Sông Điên

Dòng Sông Điên

( “Ít nhất trong người có một chút điên
mới có thể hiểu cái điên của người khác” )

CLAUDE BERNARD

Dòng sông điên miên man
Sụp toang vườn địa đàng
Cuồng quay cơn trốt lốc
Mờ mit dặm tà dương

Hư vô là tiếng gọi
Sa mạc chận giữa đàng
Một mình ta – Viên sỏi
Rêu dầy dấu thời gian

Mấy chốc! Đời phi lý
Lối mù vắng ánh đèn
Ngăn nẻo về, vực thẩm
Đi trốn mắt thân quen

Ngày nao, ba tiếng khóc
Oa oa vẫy chào đời
Tơ xanh pha sương đục
Tay gầy sẽ buông xuôi

Nụ cười nhoẻn khóe môi
Che tiếng nấc bùi ngùi
Lăn quay theo dòng lũ
Đơn độc lệ trôi xuôi

Ôi dòng song tuổi nhỏ
Bé bỏng quê con đò
Cội mai xưa còn đó
Giờ bơ vơ – Bơ vơ

Hải Chu



Đường014- Hai Lão Già Mù

Xướng: Hai Gã Khù Khờ

Đá núi ngu mà hạc cũng ngu
Ân giao cốt cách, mắt như mù
Còng lưng những tưởng lòng trong vắt
Nạo óc đâu hay dạ tối hù
Độn thổ lòi đuôi loài đạo tặc
Đầu giang rõ mặt đứa phàm phu
Ngay lòng thiệt bụng sa hang cáo
Đá núi ngu mà hạc cũng ngu

Thạch Trung


Họa: Hai Lão Già Mù

Mang tiếng to đầu trót lỡ ngu
Lão đui cầm gậy dắt thằng mù
Sửa câu chọn chữ từ trưa xế
Thêm ý bình văn tới tối hù
Quẹt mỏ bỏ ơn, quên tín nghĩa
Vỗ đùi khỏi lỗ, phủi công phu
Cầm cu chó đái, sao không thẹn!
“Chữ nghĩa học trò”, rõ thật ngu

Huyền Hạc, 24-03-1996


Đường013- Hỏi Trời

Hỏi Trời

“Ta sinh lầm kiếp người
Trời muốn hay không muốn
- Ồ! Ta lỡ đánh rơi
Loài cỏ hoang xuống ruộng”

Hải Chu

Sanh lầm thế kỷ lại lầm nơi
Bó gối ngồi chơi cả cuộc đời
Con nước xuôi dòng, con nước dẫy
Cánh bèo, mắc gió, cánh bèo trôi
Thế cờ mất pháo sa tay mất,
Canh bạc rồi đêm, sạch túi rồi
Thân mọn như tôi, trời cũng ghét
Giân gì ? Ta chỉ cợt đùa thôi

Huyền Hạc, 25-05-2003




Đường012- Con Lân Đá

Con Lân Đá

Gởi Thạch Trung

Đẻo đá, tô chi giống quái kỳ
Trông ra nào giống cái chi chi!
Vãy rồng cậy được oai rơi rớt
Thân ngựa nhờ thêm sức đứng đi
Chẳng cánh lên trời, sao mỉa phụng
Không tài lướt dặm lại khinh qui
Đầu tà đít bổn, đồ lai giống
Một đống trơ trơ, cứ đứng ì

Huyền Hạc, 03-1996




Đường011- Quần Áo Anh Hề

Quần Áo Anh Hề

Tặng Thạch Trung

Giày nón diện gì thấy phát ghê
Lôm côm bề bộn rõ ê hề!
Hở lưng, áo khỉ, đeo cà - vạt
Lòi nách, tay lông, diện gí – lê
Ốm nhách, ốm nhom, bày cốc - lết
Nhỏng nha, nhỏng nhảnh, vận xoa – rê
Rằn ri sặc sở, coi diêm dúa
Đúng thiệt xiêm y cái lão hề

Huyền Hạc, 30-03-1996



Đường010- Vịnh Hoạn Thư

Vịnh Hoạn Thư

Vườn mới ươm thêm một đóa hồng
Lửa tâm càng giập, thấy càng nồng
Chép kinh nguôi dục, tình chưa dứt
Ra cửa lầm mưu, nợ chửa xong
Cay ớt chua chanh, dày dạn mặt
Độc lời hiểm thói, trẻ trơ lòng
Lược gương đáng để mày râu khiếp
Xếp đặt trận đồ sánh Ngọa Long

Huyền Hạc, 1994 (13 Giêng âm lịch)


Đường009- Con Voi Đất

Con Voi Đất

Tặng Thạch Trung

Quá hay! Lũ trẻ đắp con voi
Tính giá vàng ròng, đáng mấy thoi
Cánh bướm vàng, tai to tợ quạt
Đỉa trâu thun, mũi cuốn như vòi
Nhờ ngoe càng rạm, đi rồi đứng
Nhả bã bà trầu, liếc lại coi
Vênh váo tưởng mình voi thứ thiệt
Sượng sần cục đất sét mà thôi

Huyền Hạc 30-03-1996




Đường008- Chửi Đời

Chửi Đời

Cõi thế nhiều con cũng lắm thằng
Bày trò ma mảnh chuyện làm ăn
Người hiền, gạt của chơi trò bợm
Nước đục buông câu, giở thói xằng
Vênh mặt Nho gia bàn chữ nghĩa
Lộ hình điếm đực trộm thơ văn
Này, ta chửi thẳng phường vô sỉ
Trộm cắp, mua xin cái mảnh bằng

Huyền Hạc, 11-2002



Chủ Nhật, 5 tháng 4, 2009

Mới007- Xuôi Ngược Dòng Đời

Xuôi Ngược Dòng Đời

1- Cô gái được tiếng nhà lành
Từ chối làm tình
với lão già còn mảnh xương da
Hầu bao lép xẹp

2- Mụ đàn bà hé cửa thò đầu
Tiễn gã đàn ông dáo dác nhìn quanh
Biến ngay vào bóng tối
Chồng mụ vì áo cơm đi vội
Sáng nay

3- Mộ bia nghiêng nghẻo
Bụi thời gian năm tháng phủ chưa dầy
Người đàn ông bạc mạng
Chết để chiều nay
Đứa con mọn thênh thang
Dưới ánh đèn vàng thất thểu
Bước đi mà lòng chưa được hiểu
Sẽ về đâu

Hải Chu, 04-2002




Mới006- Con Nước Xa Bờ

Con Nước Xa Bờ

Hạnh phúc đời người đà xa cành lìa cội
Bút nghiên xưa lưu vụng dại chút dư hương
Con thiêu thân theo dòng trôi nước lũ
Đêm vui xa nghe sóng cuốn ngoài khơi

Vầng sáng trên cao mây mù ngụ đặc
Thoáng đâu đây âm hưởng một trầm tư
Một vạn năm sau trời cao xanh còn điếc ngắt
Kêu van gì cảnh xếp đặt tự ngàn xưa

Bốn bức tường vây quanh vây hãm người vào ngỏ cụt
Đêm hoang vu heo hắt lạnh sao khuya
Bước chân trần cô độc nẽo đi về
Ném thân phận vào rủi may không cần biết

Thật như đếm thì cả đời cam thua thiệt
Thằng đâm heo…, đừng tiếc một nhát dao
Ta chết đi, chẳng một tiếng kêu gào
Nỗi thống khổ ta đem vào đầy huyệt

Kiếp thừa thải, ta nào luyến tiếc
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Huyền Hạc, 1979




Mới005- Vô Đề

Vô Đề

Cây da đứng một mình
Bến đò xưa mất dạng
Dòng thời gian lặng thinh
Lấy ai làm bầu bạn

Thời gian không biến dịch
Nhịp đời không vắn dài
Mà sao hồn u tịch
Thấy đời khổ gắp hai

Đêm qua buồn quán khách
Nước mắt hòa men cay
Lăn lộn đời hết cách
Mà vẫn trắng đôi tay

Mềm môi câu thế sự
Nát lòng chuyện rủi may
Gót sông hồ xa xứ
Kéo lê kiếp lưu đày

Bàn chân còn chưa biết
Đưa mình đi về đâu
Đời hư, ta không tiếc
Sao hồn vẩn vơ sầu

Ơi! đời là gì vậy?
Chỉ một tuồng biển dâu
Thôi xem như khách trọ
Tóc xanh sớm bạc màu

Bóng quê – Vùng tuổi nhỏ
Hương thơ ấu trăng xưa
Mà ngỡ như đất lạ
Người qua dáng hững hờ

Hoa bướm thời bé dại
Cõi mơ giấc địa đàng
Qua rồi đâu trở lại
Héo úa như lá vàng

Mỗi nỗi buồn ghi dấu
Bằng giọt nước đêm trường
Mong tan trong hớp rượu
Bay hơi theo thời gian

Khót thuốc đan tay vàng
Bùn dơ tràn ngõ tối
Đèn mù bước dọc ngang
Chân bết bê cát bụi

Tình người đã khô cằn
Vô tư viên đá sỏi
Huênh hoang chuyện nghĩa nhân
Dầu lửa tim tàn lụi

Tiếng hát đà im bặt
Chẳng lưu một dư âm
Giờ tiếng chì tiếng bấc
Hãy thin thít lặng câm

Tìm rượu ta quờ tay
Còn rượu đâu để say
Thôi kê tay làm gối
Nỗi phiền muộn còn dài

Lạy trời mưa thêm nhiều
Ru buồn thêm trắng tóc
Hòn đá cuội thêm rêu
Cho đời bớt cô độc

Hải Chu,

Phú Hưng, Quê Nhà Năm 1979 Thất Mùa




Mới004- Ngày Mai

Ngày Mai

Tặng học trò cũ

Ngày mai, ngày mốt rồi sau nữa
Chẳng biết đời đưa tới chổ nào?
Sương bạc tháng năm hằn lọn tóc
Mong manh bao cát: áo sờn bâu

Hơn nửa kiếp người tay vẫn trắng
Xẻ sâu vầng trán mấy lằn nhăn
Giương to mắt trắng cười điên dại
Đời đảo điên - Ngu nói chuyện xằng

Đĩ bợm dõ mồm ban đạo đức
Thiến heo lớn tiếng chuyện văn chương
Ta lim lim mắt nghe đời kể
Những chuyền quàng xiên cõi hí trường

Ngày mai ngày mốt rồi sau nữa
Biết sống còn hay sẽ chết đây
Vô vọng với tay tìm ảo ảnh
Còn gì ta gởi cánh mây bay

Ngày cũ lửa nung tay chín rạn
Chân trần rướm máu lớp rào gai
Tráo mắt - Mỉm cười – Ôi khiếp đảm!
Có lẽ phiên ta cũng có ngày

Ác mộng len về đêm lại đêm
Chưa khi nào ngủ giấc êm đềm
Vọng tiếng ngáy đều người mới gặp,
Ngoài rào sương ấp ánh trăng êm

Cơm chan nước mắt - Đời lang bạt
Một khách hành hương chẳng hẹn về
Vợ hỏi: “Bao giờ anh trở lại?”
Nhe cười: “Lỡ, lạc lối đam mê”

Hiện tại còn không sao hiểu được
Dễ gì mà biết việc ngày mai
Thôi thì phó mặc cho dòng nước
Bờ bến nào đây? - Chuyện rủi may

Số phận nổi chìm rồi cũng mặc
Bỏ nghề cầm bút, lảnh hai cây
(Cuốc đất trồng rau nuôi lỗ miệng)
Trồng rau cuốc đất nghề cha mẹ
Khoảnh ruộng ngày xưa đợi luống cày

Mai đây chắc chẳng chăn đàn trẻ
Sách vở gở bìa vấn thuốc rê
Thơ phú - mệt rồi - Đừng để mắt
Đời tàn, bông bí luộc hôi ê !

Hải Chu, Để Nhớ Ngày Đi tháng 05-1975


Mới003- Cuồng Ca I

Cuồng Ca I

Có người hỏi: Có muốn làm thi sĩ ?
Tôi khẽ lắc đầu: Tôi chẳng muốn mình điên!
Có người hỏi: Sao không làm thi sĩ ?
Tôi khẽ mỉm cười: Vì không thể nói chuyện điên


Vật lộn với áo cơm
Nửa mảnh đời oi nồng mùi cay nghiệt
Vồn vã bắt tay
Hay ngoảnh mặt đối đầu
Với người lạ quen không biết
Ao phù hoa lúc nhúc bọn vượn người
Muốn yên thân phải sống với đười ươi
Học tập lại cái khóc cười theo từng cảnh ngộ
Giả dối với mình lâu ngày đâm ra ngố
Sốt mê man trong dòng lũ loạn cuồng
Vứt tình người chẳng chút vấn vương
Đời là vậy - Người của phường sân khấu
Có thế có quyền, nên ông nên cậu
Áo vá chân trần – Hãy cất giấu mình đi
Ngước mắt trông - Bầu trời rộng xanh rì
Mừng vẫy gọi một vì sao xa lắc
Hạnh phúc đời người
Đâu giống con thuyền bỏ neo buộc chặt
Nhốt niềm vui trong chất ngất bốn tường vôi
Hãy ban phát cho tôi một cánh mây trời
Nguồn hạnh phúc là nơi chưa định trước
Sự hiểu biết là cái không nói được
Vườn địa đàng – Ôi! Vũng nước ao tù
Nét ngọc châu là màu nâu sạm da khô
Con thiêu thân chẳng có giờ ngơi nghỉ
Bổ cày giữa đường
Mãng nghe theo lời anh tiếng chị
Nhiều nắng mưa, thành chai đá vô tri
Ôi! Nhân luân cả khối chuyện vô nghì
Dòng nước đục mê ly cò giả trá
Làm thơ đâu phải uốn câu vừa miệng cá
Giọng quốc khàn ra rã tiếng kêu hè
Ta yêu người ít nói chỉ ngồi nghe
Biết đứng dậy ra về đúng lúc

Là thi sĩ phải lắng nghe lời thúc giục
Của tình ngườị nỗi uẩn khúc của con tim
Thấy xôn xao trong vũ trụ đà lắng chìm
Trong cổ mộ, nghe nỗi niềm của đá

Mực đã khô đôi tay giờ mệt lã
Nàng Ly Tao cũng rã cánh thiên thần
Hồn bay xa trong tám cõi phù vân
Đi xa lắm - Vượt mấy từng trái đất
Các thiên thể cùng Không - Thời hòa nhập
Trong vô biên của vũ trụ khôn cùng

Ngòi bút ta, ta không thể uốn cong
Ca ngợi lũ dế trùn
Bụng chướng to vì hút máu dân
Lũ chuột tham ô đêm ngày đục khoét
Thằng dân đen da xanh xao bệnh rét
Lục lọi tìm vơ vét sạch sành sanh

Hồn ta thâm, u sầu vời vợi xây thành
Có ai người sẳn khối óc tinh anh
Để thấu được điều ta muốn nói
Tay ôm ngực, nỗi đau lên vòi vọi
Biết bao giờ dừng lại những gian truân
Ngày đi xa, ánh sáng tắt lụi dần
Ta là hiện thân của niềm đau vô cớ đó
Linh hồn ta, ngôi nhà hoang bỏ ngỏ
Sợi đau thương gom bó lại mà thành
Đời phù du là tia khói mong manh
Nếu ta chỉ là cành chùm gởi
Thôi cứ nghĩ từ xa xôi ta tới
Sống vô tri như xác đợi người chôn
Túi đựng thịt xương, không ngự trị bởi linh hồn
Kể ta chết từ khi còn non dại

Kể như ta suốt một đời ăn hại
Như thằng câm ú ớ mãi chẳng nên lời
Cam sống mòn, thừa thải dưới mặt trời
Đầu thai xuống. trót đánh rơi ngòi bút
Lỡ mất trí đành lặng câm trong tủi nhục
Nhập cuộc đùa vui trong dòng đục tanh hôi
Ôi, giờ đây, ta thật sự chết rồi
Trên cây bút bẻ đôi, nằm co quắp

Ta đã chết vì cả đời chưa lần gặp
Lương tâm người với thân phận Con Người
Dưới mồ sâu ta tức tủi khôn nguôi
Môi cay đắng chưa thốt được lời cay đắng
Ôi vô vị một quãng đời dài dẳng
Mồm cuồng điên chưa nói trắng những điên cuồng
Đêm trăng đầy, tay ngửa hứng sương tuôn
Hồn thăm thẳm giữa muôn trùng nuối tiếc
Tiếc lúc sống đã làm câm giả điếc
Chuộng bình an - Dầu tha thiết với tình người

Thượng Đế ơi! Xin Người nhận lấy tôi
Ném địa ngục hay thiên đàng cũng được
Vì không muốn ăn ngang nói ngược
Kẻ vô liêm sỉ, lũ người láo xược
Giấu lưỡi gươm, lớp nhung mượt phủ chông gai

Néro ơi! Ta réo gọi Néron ơi!
Hãy đứng dậy đến gần nơi ta ngự
Đừng xấu hổ với miệng đời bia sử
Ta yêu người vì nghĩa cử kẻ mù lòa
Choàng giùm ta bọn thi sĩ một vòng hoa
Rồi tống cổ chúng ra xa thành phố
Tán tụng láo đáng muôn đời phỉ nhổ
Vần gấm hoa, thô lỗ tiếng cười điên

Hải Chu, 04-1979


Mới002- Về Đây

Về Đây

Định mệnh chắc trao người bạc mệnh
Suy nghĩ buồn lo có được gì
Đất ruộng bạc màu, mùa mất trắng
Cao lương, rau rác trộn khoai mì

Về đây mọi thứ đều thay đổi
Tình cảm ngày xưa tắt lịm rồi
Đôi mắt xóm riềng xa lạ quá
Giường tre tay gối xót thân tôi

Đường dài trước mặt đầy mưa gió
Nền ẩm trùn giun đặc - Thở dài
Bầu bạn ngày xưa không đến nữa
Cỏ tràn thềm lạnh, giọt mưa bay

Bó gối đầu hiên manh chiếu vụn
Phì pha thuốc vấn, đợi trăng khuya
Áo cũ vá chồng năm bảy lớp
Cũng không ngăn nổi lạnh tư bề

Hải Chu, Quê nhà năm thất mùa, chạp 1978



Mới001- Nhớ Chiếc Áo Dài Xưa

Nhớ Chiếc Áo Dài Xưa

(Tặng khách hành hương về nguồn)

Yêu em từ kiếp nào
Gặp em chừng lâu lắm
Nét tha thướt ấp ủ làn hơi ấm
Tà áo bay in đậm dấu thời gian
Gà gáy trưa, thôn cũ nắng tràn
Áo chẹt vá quàng - Giọng ầu ơ của mẹ
Gió thoảng lướt, nhịp võng trưa đưa nhẹ
Thế giới huyền mơ chợt ghé mien man
“Trầu lên nủa nọc trầu vàng
Thương cô áo chẹt, vá quàng nửa lưng”

Những mùa xuân tiếp nối những mùa xuân
Bước thơ ấu ngập ngừng hoa với mộng
Nẽo trước thênh thang – Dòng thời gian trải rộng
Cụm đất nghèo vắng bóng những niềm vui
Cuống rún lìa xa, tấc dạ bùi ngùi
Chiếc áo vá quàng, cuộc đời đen như đất
Cô thôn nữ mãi lũ lam đời chật vật
Tre sau nhà cao ngất đứng mỏi mòn
Đời xuôi mau - Người mất, áo chẳng còn
Bùn nước đọng, gót chân son là dĩ vãng

Tim rộn rã, muốn tâm tình trút cạn
Có người tìm cô bạn Gia Long
Cô gái trường áo tím ngày xưa
Trong nắng ấm má hồng
Giờ tóc dệt màu bong
Mà tà áo vẫn bình bồng trong tâm tưởng

Đã biết yêu mà hồn còn rất ngượng
Chiều hoài hương – Chân lạc hướng đất người
Nửa tháng cháo chợ cơm hang –
Ròng rã đếm mưa rơi
Tay úp mặt – Ôm mảnh đời lưu lạc
Núi Ngự mờ sương – Dòng Hương trong vắt
Cầu Trường Tiền xa lắc sáu vại dài
Khói sóng hoàng hôn – Lòng chợt ấm chiều nay
E ấp nón bài thơ, thướt tha tà áo dài Đồng Khánh
Gót viễn xứ, chiều Cố Đô lành lạnh
Dạ nhuốm vui, khóe mắt rịn giọt sương
Gác trọ nghèo lóng gà gáy tha hương
Bóng nhòa nhạt hắt lên tường cô độc

Cuộc chinh chiến lê chuỗi ngày thảm khốc
Tình vù bay, cắt ngang dọc bạn, thù
Giữa trưa hè sụp bóng tối âm u
Lá lả tả dù ngày thu chưa tới
trời đất rộng bom cày đạn xới
Màu áo xưa bay vội đỉnh mây mù
Cấy đông ken đêm lạnh hoang vu
Nơm nớp sợ trận đổ dù, phục kích
Cô gái quê cầm lồng đèn, ôm tập sách
Lớp i tờ - Trường dừng vách lá chằm
Tai ngóng nghe đạn pháo réo gầm
Miệng lẳm nhẳm thì thầm bài mới học
Gọn trang phục, gọn chân tay đầu tóc
Có mơ gì cái hình vóc thướt tha
Bọc lụa nhunh ngũ sắc của Hằng Nga
Chiếc áo dài là tinh hoa nét đẹp

Đã hết rồi hận thù và sắt thép
Nới rộng tay làm mà vẫn hẹp miếng ăn
Đời đương cần lưng thớt bắp tay săn
Thiên hạ nghĩ: “Đẹp đâu bằng có ích”
Quần chặm vá, mảnh áo thô nặng trịch
Dép kéo lê la thanh lịch đời người
Chóng qua rồi cái thập kỷ bảy tám mươi
Vũng nông hẹp, ta khóc cười lặn hụp
Xó bếp vắng, con chó già ẩn núp
Chường mặt ra sợ bị chụp, bị vồ
Cài chặt then, sợ ruồi muỗi bay vô
Gặm nhắm mãi khúc xương khô meo mốc
Cô giáo trẻ bước vào lớp học
Bận quần tây, áo cộc hở mông đùi
Chiếc áo dài ơi! Ta tiếc mãi khôn nguôi
Sống giữa đám mù đui nghệ thuật
Kẻ hiểu biết lặng câm – Mà nỗi lòng u uất
Người ngu si theo lốc trốt cuốn đi
Dạ, dạ, vâng lòng chẳng nghĩ suy
Dạ non nớt biết gì là nét đẹp

Óc hủ lậu, được một thời cũng đẹp
Bay xa rồi cảnh mắt khép tay che
Mở toang hoác cửa ra – Gió lộng tư bề
Bốn biển năm châu - Lối đi về muôn nẽo
Đã mười năm theo chân người lẻo đẻo
Nay rực rỡ hào quang thần diệu giống Tiên Rồng
Thổ Cẩm muôn màu, gấm Thái Tuấn, lụa Hà Đông
Đưa lên đỉnh chiếc áo dài của giống dòng Lạc Việt

Hải Chu 08-03-2002




LB007- Bao Giờ Trở Lại

Bao Giờ Trở Lại

Tặng những thằng bạn xa quê

Bao giờ trở lại hở em
Cuối mùa xuân rụng mùa sim trên ngàn
Đất người mòn gót đi hoang
Có nghe cô quạnh đêm ngàn trăng soi
Ồ em! Đâu biết lạc loài
Tai đương tưởng vọng hát bài hoan ca
Từ ta nâng tiễn quan hà
Tin hồng nằm chết đáy xa sóng cồn
Nằm khoèo ôm bóng trăng suông
Ta buồn mọt đục nửa hồn quạnh hiu

Hải Chu, 1980


LB006- Rời Chốn Thiên Đàng

Rời Chốn Thiên Đàng

Mây cao rớt hột không ngờ
Giữa đôi nơi cách bến bờ trăm năm
Giọt mưa mang kiếp phù trầm
Lăn theo dòng đục, cát lầm nhân gian
Rong chơi dưới ruộng trên ngàn
Dễ gì tìm dấu thiên đàng ngày xưa
Một đời quỉ dẫn ma đưa
Giấc mơ tiên vẫn lờ mờ chiêm bao

Hải Chu, 11-2000




LB005- Bãi Tha Ma

Bãi Tha Ma

Mồ hoang sương lạnh ôm choàng
Cây bơ vơ đứng hai hang đìu hiu
Thời gian ố sắc diễm kiều
Đợi đêm lên – Rông muôn chiều không gian
Bóng đen cỏ tối lấn tràn
Mong manh sợi khói bia tàn lệch xiêu
Ai đi bỏ mộng một chiều
Dưới kia có thấy ít nhiều cô đơn

Hải Chu, 05-1996




LB004- Nghe Đàn

Nghe Đàn

Tàn cây xếp lá lim dim
Cơ hồ gió bụi lắng chìm vào xưa
Xa lìa cuốn rún ngày thơ
Nhớ sao tiếng gáy gà trưa quê nghèo
Trăng gầy bến cũ buông neo
Ngựa hoang tào cũ - Ruổi vèo thời gian
Ai buồn nắn điệu tơ đàn
Khói vương động cũ hoa vàng bơ vơ
Gục đầu mắt khép thờ ơ
Mưa ngâu ngọt giọng, mắt mờ tóc sương
Âm thừa đồng vọng đoạn trường
Chân chai đá nhọn, khiếp đường viễn chinh
Quyện sương lá thở líp mành
Nương song ly phụ ngóng vành trăng khô
Mắt hoen ngấn lệ nến mờ
Mùa xuân qua vội hững hờ hư không
Ta còn đây mớ tóc bồng
Gót gai đâm toạc bước hồng máu loang
Tiển em về lối điêu tàn
Áo bao cát nặng, cơm chan tủi sầu
Phủ vàng cát bụi tóc râu
Lá theo gió cuốn thương sao mây trời
Dòng đời con nước cứ trôi
Trăm năm cát lở sông bồi, mặc ta

Hải Chu, 08-1979


LB003- Về Quê

Về Quê

Ta đi như ngựa quên về
Chuồng xưa – Hơi lạnh còn tê tái sầu
Đêm dài sợ lắm chiêm bao
Đất quê, chắc cũng dạt dào dư âm
Chân dò lối cũ âm thầm
Sợ quên nẽo thuộc, sợ lầm đường đi
Phủ quanh mắt bụi đen sì
Mong manh áo mỏng - sống lì gió mưa

Hải Chu, cuối 1977




LB002- Dốc Mù Trước Mặt

Dốc Mù Trước Mặt

(Tặng bạn đồng hành)

Con đò buồn nước trôi xuôi
Trăng nghiêng cây lệch, ngậm ngùi dáng mây
Sóng nhồi ươm mộng thuyền say
Ngày mai đã biết - Kiếp đày đọa thôi
Gác yên, ngựa luống bồi hồi
Giậm ngần ngại vó dốc đồi lãng du
Lạnh căm vách đá sương mù
U mê hiện tại – bay vù tương lai

Hải Chu, 1975




LB001- Bình Minh

Bình Minh

Màu hoa chớm nắng đâu em
Đêm chưa tỉnh mộng – Còn mềm mắt thơ
Trong mê, chim bướm mơ hồ
Gió qua từ nẽo hư vô mới về
Đỉnh mù còn nuối mây che
Chưa vươn vai dậy gọi về nắng mai
Cành xanh lã ngọn còn say
Âm u còn đọng đường dài sũng mưa

Hải Chu Bùi Thanh Kiên, 1985


Đường007- Vịnh Truyện CÕI MÂY

Vịnh Truyện CÕI MÂY

(Tặng tác giả Hắc Sơn, đồng điệu)

I - Đồ Cóc Rác

Họ cha bỏ đứt đổi thành Lê
Đội mão mang râu trút lớp hề
Giở thói lưu manh thơ bạn cuỗm
Bày trò ma mảnh chị dâu bê
Làng văn hình nộm toan vùng dậy
Biển thánh lòng tong muốn dựa kề
Cóc đớp sao trời đâu dễ đạt
Họ cha bỏ đứt đổi thành Lê



II

Chồn ham danh cọp lết rồi lê
Nhứt điểm lương tâm, dạ chẳng hề
Bằng giấu trong rương, đà cướp giựt
Đồ chèn dưới bẹn cũng bưng bê
Nghề hèn đạo chích xua người lánh
Lưỡi ngọt lưu manh níu kẻ kề
Chẳng thấy đạt đâu trơ mặt mốc
Chồn ham danh cọp lết rồi lê



III – Tự Trách Mình và Thạch Trung

Kẻ lầm Dái Ngựa ngỡ là Lê
Có mắt như đui - Quả thật hề!
Vị ngọt non cao trao “bạn ngọc”
Thịt dai heo nái tưởng đùi bê
Cháy nhà chuột lắc hang luồn trốn
Vỡ lẽ, dao phay cổ cận kề
Hảo hớn ra tay lành giải độc
Cứu thằng Dái Ngựa ngở là Lê

Huyền Hạc, SàiGòn 09-04-2002

Đường 006- Gởi BẰNG GIANG TỬ

Gởi BẰNG GIANG TỬ

Mấy độ sương sao vẫn cứ vui
Biển xanh dâu tốt lá còn tươi
Bóng tùng gió trúc trăng hiên tỏ
Rượu cúc trà sen bạn lứa chơi
Chuyện thế đổi dời coi chán mắt
Tình người ấm lạnh nghĩ mòn hơi
Một bầu trời đất trong vườn kiểng
Tỉnh tỉnh say say mặc chợ đời


Cung đàn nhịp phách để mà vui
Gối mỏi chồn lưng sắc vẫn tươi
Tùng biếc trúc xinh đêm nguyệt rạng
Rượu đầy điệu cũ bạn bè chơi
Đổi dời thế cuộc đà quen mắt
Nồng lạt nhân tình chẳng mỏi hơi
Mượn lấy tiếng tơ quên lãng hết
Bon chen chân giả kệ thây đời

Huyền Hạc 1994




Đường005- Nhiếc Đời

Nhiếc Đời

Đời sao nhiều đứa quá là gan!
Hơn cả đàn bà - thịt xẻ ngang **
Bốn đẳng đai đen, ghê chém lén
Năm châu trí rộng, sợ phan càn
Chuột tanh dợm cẳng toan nồ hạc
Khỉ ướt bày mưu giận tím gan
Bóng nhỏ từng cao chim phụng lượn
Nép mình thấp thỏm dạ nào an

Huyền Hạc 11-2002

** Lấy ý câu văn chương bình dân:

"Đàn bà nghĩ lại quá gan
Thịt không để vậỵ xẻ ngang làm ..."


Đường004- Buồn Tàn Thu

Buồn Tàn Thu

Tặng ThạchTrung, HắcSơn

Hơi may heo hắt tiết thu tàn
Úa sắc tre xơ xác lá vàng
Khóm trúc giao nhành con sẻ đậu
Cội tòng xanh lá giọt sương tan
Quản Ninh cắc chiếu lòng đau đớn
Tôn Tẫn nhìn chơn dạ ngỡ ngàng
Bèo nước sông hồ… đâu bến đậu!
Nơi nào! hay hạc mọn lang thang

Huyền Hạc, Thu 94



Đường003- Mừng Bạn Như Anh

Mừng Bạn Như Anh

Vịnh Bạn Ra Mắt Tập Thơ Ngày 10-9-95

Mừng thầm tri kỷ nhắn nhe sang
Bến ấm Ly Tao nước dẫy tràn
Xưa gió gác Đằng đưa vận hội
Nay dòng sông Mỹ kết kim lan
Trăng nghiêng sương quạnh chia bờ mộng
Sao rạng trời khuya tiễn tấc đàng
Sáng nhịp cầu duyên thi với phú
Tỏ niềm mơ ước xiết hân hoan

Huyền Hạc



Đường002- Nhớ Cụ Cử PHAN VĂN TRỊ

Nhớ Cụ Cử Phan Văn Trị

Theo đòi cử nghiệp để mà chơi
Chẳng lụy công danh vẹn nghĩa người
Thép bút kinh hồn quân bán nước
Hồi chuông tỉnh mộng bọn mua cười
Tốt danh áo sá câu lành rách
Trọn đạo đời thây chuyện lỗ lời
Bơ sữa lợm mùi ngon mắm sống
Cao lương mỹ vị chớ mong mời

Kỷ niệm giỗ cụ Phan Văn Trị 22-6-95


Huyền Hạc

Đường001- Đi Ở Ẩn

Đi Ở Ẩn

Thôi nhé từ nay sống ẩn cư
Thưởng hoa đọc sách lúc nhàn hư
Khi buồn thăm viếng dăm thằng bạn
Ân oán từ đây quyết giã từ

Huyền Hạc Bùi Thanh Kiên, 1982

Thứ Tư, 25 tháng 3, 2009

Phương Ngữ-01/ Thay Lời Tựa


Thay Lời Tựa


Tôi sanh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân miền Trung Nam bộ. Cơn mưa dông đầu mùa đến trong cái nắng oi nồng tháng ba âm lịch với tiếng trống chầu cúng lễ Kỳ yên còn phưởng phất hương dìu dịu của bông bạch mai của ngôi đình cổ. Dang đầu trần ra ruộng hớt cá lia thia về nuôi lũ khũ chờ ngày đá độ với tụi bạn, bắt bọ rầy nứt đất nhốt một hũ, cho hai con dế đá nhau trong cái lít đong gạo. Tất cả đều tạo cho tôi chiếc gối nhung êm mượt của một chút gì để nhớ thời quá khứ nay đã quá xa xăm.

Rồi tôi lại tạm giã từ cuộc sống ruộng rẫy tuỳ thuộc cái khí hậu mưa nắng hai mùa đã một thời gắn bó. Đi học xa nhà trong cảnh gạo chợ nước sông, bên con rạch nhỏ chảy ra Cầu quay Mỹ Tho, tôi bắt đầu thấy mình cô đơn lạ giữa đất khách quê người. Trọ trong ngôi nhà ọp ẹp cạnh bờ lá dừa nước rậm ri, trời sẫm tối là muỗi mòng như vãi trấu, bù mắt cắn sần tay chưn lúc nước ròng sát, nước sông nhửng lớn chảy vào được báo hiệu bằng tiếng con bìm bịp, tôi nằm đong đưa nhịp võng học bài, lại nghe bên nhà hàng xóm điệu ru con não nề hoà quyện trong nước mắt của người thiếu phụ:

Gió đưa bụi chuối sau hè,
Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ.

hoặc:

Má ơi! Con vịt chết chìm,
Thò tay xuống vớt, con cá lìm kìm nó cắn tay con.

Bây giờ, có đi xa xôi mấy, tôi vẫn bàng hoàng nhớ lại vẻ mặt đượm buồn của người thiếu phụ trẻ mắt dõi phương trời nào với một tâm tình u ẩn, nghẹn ngào trong điệu hát ru. Con bìm bịp ngày xưa, con cá lìm kìm thuở trước chắc chắn không còn, người đã gieo vào lòng tôi cái buồn rười rượi của hơi gió thoảng ca dao bên con rạch nhỏ, bây giờ nếu còn sống, cũng xấp xỉ độ tuổi tám mươi.

Thời gian trôi qua lẹ như tên bay ngựa chạy. Ngôn từ, hình ảnh ngày xưa được dùng trong ca dao lần lần bị lớp bụi thời gian phủ mờ, rồi đây sẽ bị phôi pha chìm trong quên lãng.

Vùng đất Nam bộ có những nét đặc trưng lưu truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác. Nơi đây, trước khi người Việt đầu tiên đến khai hoang lập ấp, đã có những cư dân bổn địa đã sinh sống từ lâu và đã tạo ra các nền văn minh rực rỡ như văn minh Óc Eo, Phù Nam. Những người Việt đầu tiên đặt chân trên mảnh đất này từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh đã mang theo phong tục tập quán của vùng đất quê hương nơi họ khóc chào đời. Họ làm việc sinh sống chung đụng với cư dân sở tại, ngôn ngữ và phong tục biến đổi từ từ cho phù hợp với hoàn cảnh địa lý, môi trường sống. Các từ đặc trưng của riêng họ như mô, tê, răng, rứa rơi rụng từ từ để tiếp nhận thêm số từ tương đối lạ trong buổi đầu tiếp xúc như cà ràng, bao cà ròn, ghe cà vom. Pháp có mặt ở Việt Nam đã" rút ruột vương tam phân thiên hạ", biến Lục tỉnh Nam kỳ thành thuộc địa, đặt miền Bắc dưới chế độ bảo hộ và đất Trung kỳ được xem như hoàng triều cương thổ , vùng đất đai tự trị của vua chúa nhà Nguyễn. Việc tổ chức xã hội mỗi vùng đều có nét riêng biệt của nó và ngôn ngữ hành chánh cũng vì thế mà không giống nhau. Ông Chánh, ký lục, thông ngôn, cu li, ghế phô-tơi lần lần trở nên quen thuộc.

Người Mãn chiếm lĩnh Trung nguyên , lập nhà Thanh, đẩy vương triều nhà Minh vào bóng tối muôn thu của lịch sử. Người Minh hương vào Cù lao Phố Biên Hoà. Những bầy tôi nhà Minh như Mạc Cửu thần phục chúa Nguyễn khai thác đất Hà Tiên, Dương Ngạn Địch vào Mỹ Tho. Cư dân Lục tỉnh lúc đó lại bắt đầu làm quen với hồng bao lì xì, cái dầu châu quải, tô hủ tíu, dĩa xiếu mại của chú chệc, thím xẩm.

Khi đất nước chia đôi vào năm 1954, hai chế độ chánh trị có cách tổ chức hành chánh khác nhau là lẽ đương nhiên và do đó, miền Nam cũng có ngôn ngữ hành chánh riêng biệt.
Bao nhiêu biến cố lịch sử xảy ra đều phát sinh ra ngôn ngữ cần thiết cho biến động đó.

Tôi muốn ghi vội ra đây vài hình ảnh qua các câu ca dao với ý nghĩa sơ sài của nó để người đọc có thể hình dung ra bóng dáng nhạt nhoà của tâm tình cùng nếp sinh hoạt của lớp người đã sống trên vùng đất Nam bộ.

Những từ ngữ được đưa vào sách, ngoài những từ đặc biệt mang đậm nét địa phương , cũng có những từ vốn dĩ rất thông thường nhưng được diễn tả với nét đặc trưng của nó. Có những từ chỉ chim chóc, thú vật hoặc cây cỏ, nếu được sử dụng trong ca dao, tôi cũng đưa vào. Tuy vậy, chúng ta cũng phải công nhận rằng việc sưu tập ca dao quả rất khó khăn. Có những câu mang ý nghĩa tương tự và có những câu có ý nghĩa hoàn toàn trái ngược nhau. Ví dụ:

Nhức đầu, dặt lá bòng bong,
Tội trời tôi chịu, thương chồng hơn anh.

và:

Nhức đầu, dặt lá trường sanh,
Tội trời tôi chịu, thương anh hơn chồng.

Như vậy, chúng ta buộc phải chấp nhận cả hai cặp câu với hai ý nghĩa tương phản nhau. Hơn nữa, có một vài trường hợp, các học giả sưu tập ca dao ghi đúng theo cách phát âm của các nghệ nhân. Thành thử, các câu đó có thể sai ý .

Vd:
Tấm vách nát mưa luồn gió tạt,
Cảm thương nàng tạm bạt mái lều tranh.
( Chúng tôi xin mạn phép sửa tạm bạt thành đạm bạc)
Có nhiều câu cũng vì lối đọc thư giãn của người Nam bộ mà bị viết sai chánh tả.

Vd:
Phụng xa lang còn than còn thở,
Vợ xa chồng gặp nhau mắc cỡ hỏng dám nhìn.
( Chúng tôi xin mạn phép sửa:
-lang thành ra loan ( chim cùng loại với phụng, có người nói đó là con mái của chim phụng),
-hỏng thành ra hổng (chữ biến trại từ chữ không)
Đối với động vật và thảo mộc, nếu có biết tên khoa học của chúng, tôi mạnh dạn đưa tên khoa học của chúng vào để các vị học giả tiện tham khảo đối chiếu.
Có một ít từ cần nêu rõ nguồn gốc của nó, chúng tôi cũng mạn phép viện dẫn từ gốc của chúng.

Vd:
-ghế tu-nê: (tu- nê- P:Thonet) loại ghế gỗ do hãng đồ mộc Thonet của Pháp đóng bán cho các nước thuộc địa đầu thế kỷ 20.
-gièm - HV: sàm: nói ra nói vào
Trách ai dụm miệng nói gièm,
Cho heo bỏ máng, chê hèm không ăn.

Về từ nguyên, chúng tôi tham khảo Tầm nguyên tự điển Việt Nam của Lê Ngọc Trụ, Từ điển các từ tiếng Việt gốc Pháp của Nguyễn Quảng Tuân, Nguyễn Đức Dân.

Đối với cây cỏ, chúng tôi tham khảo Cây cỏ Việt Nam của Gs Phạm Hoàng Hộ, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của Gs Ts Đỗ Tất Lợi.

Vấn đề chánh tả, chúng tôi căn cứ vào những bộ từ điển biên soạn trước đây và Việt ngữ chánh tả tự vị của Lê Ngọc Trụ.

Chúng tôi xin chân thành cảm ơn quí vị học giả bậc thầy đã dày công biên soạn sách vở mà chúng tôi hân hạnh được tham khảo.

Khi biên soạn tập sách nhỏ này, chúng tôi chắc chắn không tránh khỏi những sai lầm. Kính mong quí vị thức giả cao minh niệm tình chỉ giáo. Chúng tôi trân trọng đón nhận để sửa chữa cho đúng.

Một lần nữa, chúng tôi xin chân thành trọng ơn .

Nam Chi BÙI THANH KIÊN


*
*
*
BẢNG VIẾT TẮT

-dt: danh từ. : (thực): thực vật
-(động): động vật : t.k.h: tên khoa học.
-đt: động từ. : tt: tính từ.
-QĐ: Quảng Đông : ttth: từ tượng thanh
-TC: Triều Châu.


CÁC KÝ HIỆU.

- HV: có gốc từ Hán Việt : - P: có gốc từ Pháp.
- Khmer: từ có gốc Khơ me.





Phương Ngữ- Vần A

A

ÁC (dt):
- HV ô: con quạ.
: lọai chim săn mồi có mỏ, chân và bộ lông đen tuyền.
Vd: - Gởi trứng cho ác (Th.ng)
-Đỉa đâu đỉa đeo chưn hạc,
Ác đâu ác đậu nhành mai.
AI NẤY / AI … NẤY :
-Đ.ng:ai.. người ấy
1-Ai nấy: tất cả mọi người đều
Anh em ai nấy đều thương,
Trời ơi ! Há nỡ đứt đường công danh.
(Lục Vân Tiên – N.ĐC.)
2-Ai … nấy: diễn tả một ý tưởng đơn lẻ riêng biệt cho từng cá nhân
Ruộng ai thì nấy đắp bờ
Duyên ai nấy gặp đừng chờ uổng công
* “Ai…nấy” còn diễn tả thái độ thờ ơ, lạnh nhạt của kẻ khác
Cơm ai nấy ăn, nhà ai nấy ở
* Nếu kèm chữ “mạnh” với một động từ, chữ “ai nấy” diễn tả hành động buông lung, thiếu tổ chức, thiếu đoàn kết và chỉ lo cho cá nhân.
Khi chìm ghe, mạnh ai nấy lội
Khi công ty bị phá sản, mạnh ai nấy lo công ăn việc làm cho mình
ÁN (HV: :che, ngăn)
: che khuất đi.
Ngó lên trăng sáng,
Mây án con trăng lờ,
Dẫu gì, anh cũng đợi chờ duyên em.
*-án bàn tổ:
a)-đứng che khuất bàn tổ khiến cho người thầy bói xủ quẻ không linh nghiệm.
b)-(ngh.b): đứng chàng ràng khiến người khác không làm việc được.
*-án bóng:che khuất ánh sáng làm cho người khác không thấy đường.
-đứng án bóng
ÁO ( HV: áo: lọai áo ngắn và chật. Aùo rộng và dài được gọi là bào ) (dt):
- :Trang phục bằng vải che nửa thân trên
Áo vắt vai chạy dài xuống chợ
Xin ba đồng tiền trả nợ bánh canh
*-áo bà ba:Áo ngắn, vạt áo phủ mông, tay dài, từ cổ xuống ngực và bụng có đơm sáu nút. Aùo bà ba của đàn ông thì may rộng rãi và áo bà ba phụ nữ thường may bó sát thân người hơn và kiểu cọ hơn.
Thấy em bận áo bà ba trắng,
Anh muốn gắn chữ duyên,
Rủi may sau lưu lạc, anh tìm em khỏi lầm.
*-áo bành tô: (- P: paletot): Loại áo may theo kiểu Tây phương, bằng vải dày, tay dài, có bốn túi, nút áo to. Nút có thể đơm dính vào áo hay có thể tháo rời được khi giặt giũ, nhất là nút áo bằng vàng của những người sang trọng.
Áo bà ba cái vắn cái dài
Sao anh không bận, bận chi hoài cái áo bành tô.
*-áo cầu: (cg: áo khinh cừu): áo làm bằng lông cừu nhẹ.
Xưa ông Nghiêm Lăng cày mây cuốc nguyệt,
Quần tả tơi, tận tiệt áo cầu.
*-áo cổ giữa:Aùo bà ba may bằng vải trắng, cổ áo cứng và ló cao lên. Aùo này để bận lót bên trong áo dài. Khi dự cuộc cúng kiếng tế lễ xong, đàn ông cởi áo dài ra và chỉ mặc loại áo này nếu dự tiệc với người thân quen.
Đi về mua lụa mười ba,
Cắt áo cổ giữa, em tra nút vàng.
*-áo chẹt: (chẹt: chật hẹp): áo vắn, tay cụt, không xẻ đinh cụt bên hông, bận lót trong khi mặc áo dài.
Trầu lên nửa nọc trầu vàng
Thương cô áo chẹt, vá quàn nửa lưng .
*-áo dà:
a-áo nâu của người tu hành.
Chồng con chi nữa rầy rà,
Vai đeo chuỗi hột, áo dà đi tu.
b)-(động): tên một loại chim nhỏ có bộ lông màu dà, mỏ ngắn nhưng rất sắc bén, sà xuống từng đàn trong các đám mạ lúc sa mưa dông.
*-áo hoa cà:áo màu tím như màu hoa cà.
Cô kia bận áo hoa cà,
Dung nhan sắc sảo, mặn mà có duyên.
*-áo song khai: áo xẻ hai tà.
Cha mẹ sanh anh là trai,
Anh bận áo song khai, quần lai lá hẹ,
Nỡ lòng nào anh bỏ mẹ theo em?
*-áo mê: áo rách chỉ còn một mảnh.
Ngày đi khăn nhiễu áo the,
Ngày về, nón rách áo mê không buồn.
*-áo tơi: áo chằm bằng lá dùng để mặc che mưa.
Trời mưa thì mặc trời mưa,
Chồng tôi đi bừa đã có áo tơi.
*-áo thùng: áo rộng mặc ngoài áo trảm thôi khi để tang cha mẹ.
Tay mang khăn chế áo thùng,
Đầu đội chữ hiếu, tay bồng con thơ.
*-áo vá quàn: (áo dài) vá nửa thân bằng một vải khác màu. Aùo chỉ dành cho người nghèo mặc.
Khuất đám đưng, dòm chừng đám sậy,
Bớ cô bận áo vá quàn, dứng dậy tôi coi.
ẴM (đt):
-Đ.ng: bế.
:choàng tay để bế xốc lên.
Con thơ tay ẵm tay bồng,
Tay dắt mẹ chồng, đầu đội thúng bông.
*-ẵm nách: choàng tay ôm ngang lưng để nó kẹp vào hông mình bằng hai đùi
*-ẵm ngửa: lấy một tay choàng qua bụng đứa bé, một tay bợ dưới hông nó và giữ nó trước ngực mình.
ĂN ẢNH:
:có hình chụp đẹp hơn dáng vẻ thật sự của mình ở đời thường.
Mặt mũi vui tươi, thì dễ ăn ảnh,
Nửa đêm lanh lảnh, tiếng vạc ăn sương.
ĂN BÀNG:
: mọc đâm ngang, không ăn sâu xuống đất,-thường dùng để chỉ cách phát triển của rễ cây.
Mù u rễ nhỏ ăn bàng,
Anh đừng nói gạt qua đàng bỏ em.
ĂN BÒN :
:tham lam ăn phần của người khác từng chút một.
Người không lịch thiệp,
Ăn nói vụng về.
Giàu có phủ phê,
Còn ăn bòn mót.
ĂN CÁM SÚ:
1-ăn cám trộn rau đổ trong máng dành cho heo ăn.
2-tiếng mắng người mình cho là ngu si.
-đồ ngu ăn cám sú!
Ăn càn nói bướng
Là đứa du côn,
Mắc mưu thằng khôn,
Đồ ăn cám sú.
ĂN COI NỒI, NGỒI COI HƯỚNG:
1-ăn phải coi nồi còn có đủ cơm dành cho mình không khi mình được mời ăn hoặc khi ăn phải để dành phần đủ cho người ăn sau mình; ngồi phải lựa đúng hướng thuận lợi để làm việc được tốt hoặc lựa chỗ phù hợp với địa vị của mình.
2-(ngh.r): cẩn trọng dè dặt khi làm một việc gì.
Ăn phải coi nồi,
Ngồi thời coi hướng.
Aên càn nói bướng
Là đứa du côn.
ĂN CÔNG KÝ:
: thông đồng và bao che với nhau làm chuyện bậy.
Chuyện đã lỡ rồi, vì ăn công ký,
Hở ra một tí, ngồi đợi ăn chia.
ĂN CƠM HỚT:
1-ăn lớp cơm dùng vá hớt mặt trên cùng.
2-(ngh.b): (cn: hướt) - giành nói trước việc người ta không cần mình nói.
Bị hà ăn chưn,
Vì dầm dưới ruộng.
Người không tự trọng,
Ăn cơm hớt hoài.
ĂN CHƯA NO, LO CHƯA TỚI:
:chưa biết cách để ăn đủ no và chưa biết cách để suy nghĩ cho đạt tình thấu lý,-câu thành ngữ này chỉ bản chất của trẻ con.
Tuổi ăn chưa no, thì lo chưa tới,
Con nít một tuổi thì ăn thôi nôi.
ĂN DƠ:
-cn: ăn bẩn.
1-ăn những đồ thiu thúi, dơ bẩn.
-Loài cá trê phi ăn dơ và ăn tạp.
2- dùng thế lực đục khoét tiền dân để ăn; kiếm tiền một cách bần tiện.
-Cần phải tránh né,
Các bọn ăn dơ,
Vừa hốt vừa quơ,
Muốn ăn trọn gói.
ĂN ĐỜI Ở KIẾP:
-cn: ở đời.
:sống suốt đời bên nhau,-thường nói về vợ chồng.
Kết tóc xe tơ, ăn đời ở kiếp.
ĂN GIAN:
:dùng thủ đoạn gian xảo để chiếm phần thắng trong cuộc chơi.
Lương tâm sáng tỏ, ăn gian làm gì?
Ăn xổi ở thì, suốt đời nghèo khó.
ĂN HÀNG:
-Đ.ng: ăn quà.
1- ăn bánh trái lặt vặt ngoài những bữa cơm chính trong ngày.
Chợ búa ở gần,
Ăn hàng luôn miệng.
2-(lóng): cướp giựt, đánh cướp một nơi nào.
Vd: Bọn cướp ăn hàng ở tiệm vàng X đêm qua.
ĂN HIẾP:
:ỷ manh, ỷ đông, ỷ có thế lực chèn ép mgười quá đáng.
Tài sức thua người,
Thì bị ăn hiếp
ĂN KÉ:
:ăn nhờ, chia bớt phần ăn của người khác.
Người không chịu làm,
Hay đi ăn ké.
ĂN KHÍN:
:ăn nhờ vào phần ăn của người khác. (xt: khín)
Trong thời giặc giã, thì" khoái ăn sang",
Làm bộ đàng hoàng, lại hay ăn khín.
ĂN MÓNG (đt):
-(cá): ngoi lên và thở/ nhả những bọt khí trên mặt nước
Cá rô ăn móng, dợn sóng dưới đìa,
Chờ người quân tử trở vìa / về kết hôn
ĂN NẰM(đt):
-(trai gái) ăn ngủ chung với nhau như vợ chồng
Anh ơi! Thương thời thương chớ chẳng đặng ăn nằm
Cũng như trái lựu chín còn nằm trên cây.
ĂN NHẬP: liên quan tới, có dính dáng tới.
Chuyện không ăn nhập,
Xin đừng xía vô.
ĂN NHƯ TẰM ĂN LÊN:
1-khi tằm đủ độ lớn sẽ từ nong phía dưới, nơi mà chúng đã ăn những lá dâu xắt nhuyễn, chui lên nong trên có lỗ thưa để ăn những cành dâu để nguyên lá .
2-thành ngữ này dùng để ám chỉ người ăn nhanh và ăn nhiều.
Hết bán hết mua vì ăn hết vốn,
Vừa ăn vừa ngốn, như tằm ăn lên.
ĂN THUA:
:ảnh hưởng tới,-thường dùng với ý phủ định.
Mặc tình la hét cũng chẳng ăn thua,
Lỡ ăn xôi chùa, nên đành ngậm miệng.
*-ăn thua gì= chẳng ăn thua gì: không ảnh hưởng gì nghiêm trọng, không đáng lo lắng.
ĂN TRÉT:
-cn:ăn trớt; ăn trớt ăn trét.
1-lạc ra ngoài vấn đề; không dính dáng vào đâu.
Rào đường bít lối, chẳng chỗ ăn thông.
Nói chuyện lòng vòng, kể như ăn trét.
2-không đạt được kết quả mong muốn.
Vd:Nó chẳng học hành gì nên thi tốt nghiệp ăn trét rồi.
ĂN XONG QUẸT MỎ:
-cn:ăn rồi quẹt mỏ
: được kết quả tốt trong việc làm ăn mà vội quên người giúp đỡ mình.
Người không biết điều,
Ăn xong quẹt mỏ.
ĂNG LÊ (dt-tt):
- P: Anglais.
:thuộc về người Anh, nước Anh
Gió đưa bông lách bông lau,
Gió đưa em bậu xuống tàu Aêng lê.
ÂN OAI ( HV ):
-(Ân: sự giúp đỡ che chở; oai: (Đ.ng:uy) -sức mạnh, vẻ tôn nghiêm cao cả mà người khác phải kính sợ).
: Ở đồng bằng sông Cửu long, khi cúng vái một vị thần nào người ta thường dùng chữ ÂN OAI kèm với vị thần đó.
-Ân oai ông địa, ông táo …
Sau này, vì không rõ nguồn gốc của từ trên, người ta đọc sai là ÔNG NGAI
Vd: ÔNG NGAI ông địa, cho tôi tìm được…
ÂN OAI các đấng cô hồn,
Đuổi con cá nọ chạy dồn ăn câu.
ÂU (HV: )
1-(cg: cái ô, cái rổ ô): vật đúc bằng kim loại, có nắp đậy để đựng cau trầu,
2-(cg: ang, ảng): vật bằng đất nung để chứa nước.
Nước lên khỏi chậu tràn âu,
Qua lo cho bậu làm dâu không tròn.
ẦU Ơ :
:từ mở đầu câu hát đưa em
Ầu ơ! Gió đưa bụi chuối sau hè,
Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ
Có khi từ này đệm thêm vào giữa câu hát.
Ầu ơ! Gió đưa bụi chuối sau hè,
Anh mê vợ bé
Anh mê vợ bé, ầu ơ, bỏ bè con thơ.
*-ầu ơ ví dầu:
a)-chữ ầu ơ ví dầu lặp đi lặp lại khi người hát ru chưa tìm được câu để hát.
b)-(ngh.r):kéo dài ra mãi mà không thay đổi gì, không tiến triển thêm chút nào.
Vd: Tôi nhờ nó giúp tôi nhưng nó cứ ầu ơ ví dầu hoài.
ẤU (dt ):
-t.k.h:Trapa bicornus, họ Aáu Trapaceae.
: (thực) giống cây mọc dưới nước, lá giống như lá sen nhưng nhỏ hơn, có hoa trắng. Trái ấu có hai sừng, tà hay nhọn. Hột có hai tử diệp, một lớn một nhỏ chứa đầy bột, nấu ăn có vị bùi.
Thương nhau trái ấu cũng tròn
Ghét nhau bồ hòn cũng méo
hoặc:
Làm thơ trái ấu gởi thấu cho mưa,
Mưa đưa cho gió, gió đưa cho chàng.




Phương Ngữ- Vần B

B

BA BA ( dt ):
-t.k.h: Tryonix ornatus.
:tên một loại rùa ở biển.
Đầu làng có con ba ba
Kẻ kêu con trạnh, người la con rùa
BA MÁ ( dt ):
:cha mẹ
Anh với em chút nữa thì gần
Tại ba với má bẻ cần tháo dây
hoặc:
Anh đừng lên xuống uổng công,
Em nghe ba má nói không kia mà.
BA SANH :
- cđ: ba sinh do chữ HV tam sinh (ba kiếp người, ba cuộc sống nối tiếp nhau)
Chim quyên hút mật bông quì,
Ba sanh còn đợi, huống gì ba năm.
BA SANH HƯƠNG LỬA:
-cn: ba sinh hương lửa
-(ba sanh: ba đời người, ba kiếp người, hết kiếp này đến kiếp khác; hương lửa do chữ HV hương hoả :lửa và hương).
: Hương bén lửa để mùi thơm bay xa để chỉ tình cảm nồng đậm của trai gái.
Gặp em đây anh dặn mấy lời,
Ba sanh hương lửa muôn đời chớ quên.
BA SON ( dt ): (ghi theo An Chi trong Chuyện Đông chuyện Tây)
*-theo Vương Hồng Sển, trong Sài gòn Năm Xưa:
-chỗ làm việc của người thợ nguội thứ ba tên Son
-cái xẻo có nhiều cá (mare aux poissons). Sau này, cái xẻo bị lấp để làm xưởng sửa tàu. Người ta phiên âm chữ POISSONS ra chữ BA SON để gọi tên xưởng mới lập.
-BA SON do chữ RÉPARATION (sự sửa chữa). Chổ này vốn là nơi sửa chữa tàu biển.
-BA SON do BASSIN DE RADOUB (ụ sửa chữa vỏ tàu) do Pháp xây dựng để sửa chữa các loại tàu: tàu buôn, tàu chiến ở Đông dương, khỏi đem về tận bên Pháp để làm việc đó.
*-theo An Chi (trong Chuyện Đông Chuyện Tây), BA SON phiên từ chữ Pháp BASTION (pháo đài)
Anh gặp em chưa kịp trao lời,
Kiểng Ba Son đổ , rã rời nhau ra.
BÀ CON (dt ) :
1-người có dính dáng huyết thống với mình, bên nội cũng như bên ngoại, gần cũng như xa.
Vd:bà con gần bà con xa; bà con bên nội; bà con bên ngoại.
“Đổi bà con xa để lấy láng giềng gần”
Uổng công anh chùi nhạo súc bình,
Đến chừng anh tới, phụ mẫu nhìn bà con.
2-từ mà người ta hay dùng để biểu lộ sự thân mật giữa người nói chuyện và người nghe:
Vd: Kính thưa bà con cô bác…
Hoặc diễn tả sự gần gũi của người và người trong một khu vực nào đó
Vd: Bà con trong xóm cho tôi hay tin đó.
BÁ TÒNG( HV ) ( dt ):
:tên hai loại đại mộc sống lâu năm. Cả hai đều thuộc họ tùng CUPRESSACEAE
-Bá (đ.ng: Bách): trồng ở vùng cao như rừng vùng Đà lạt, gỗ dùng làm nhang thơm, đồ mỹ nghệ.
-Tòng (đ.ng: Tùng): đại mộc vùng khô núi cao. Tòng bá lá bốn mùa vẫn xanh. Vì thế, người ta dùng tòng bá để tượng trưng cho khí tiết cao khiết của quân tử trượng phu.
Chẳng khác gì nàng công chúa Quỳnh Nga mà chàng còn hổng chịu,
Em đây một người bần y tiện sĩ, cấy thuê gặt mướn, đâu có xứng bá tòng với anh.
BẢ LẢ:
1-lả lơi, sổ sàng,
2-(cn: dã lã) - nói đẩy đưa cho qua chuyện để giảm bớt sự căng thẳng.
Chuồn chuồn đậu ngọn cau tơ,
Em cười bả lả, em ngờ duyên anh.
BẠC (1):
:tiền tiêu hàng ngày
Thông ngôn ký lục, bạc chục không màng
Lấy chồng thợ bạc đeo vàng đỏ tay.
*-bạc cắc:
a)-bạc vụn, món tiền bằng xu cắc nhỏ hợp lại.
b)-(ngh.r): món tiền nhỏ.
Vd: làm nghề đó là lượm bạc cắc, biết chừng nào lấy vốn được.
*-bạc đồng: (cn: đồng bạc) -tiền đúc bằng hợp kim có mệnh giá từ một đồng trở lên do Ngân hàng nhà nước phát hành song song với tiền giấy.
Bạc đồng em từng thấy, bạc giấy em từng cầm,
Bớ anh ơi! Mở lòng rộng rãi sắm cây dù đầm cho em.
*-bạc hai mươi:
a)-lối cho vay bạc cứ một trăm đồng thì con nợ phải trả hai mươi đồng lời trong một tháng,- lối cho vay này cũng được gọi là xanh xích đít đuôi (P: cinq six dix douze: năm sáu, mười mười hai có nghĩa là năm đồng vốn thì cà vốn lẫn lời là sáu, mười đồng vốn thì cả vốn lẫn lời là mười hai đồng.)
b)-(ngh.r): vay hoặc cho vay tiền với lãi suất cắt cổ .
Rửa tay cho trắng, ngắt ngọn rau đắng cho tươi,
Hỏi bạc hai mươi chuộc miệng em cười.
*-bạc trăm:
a)-vào thời Pháp thuộc, tờ giấy xăng (P:cent : trăm), hoặc giấy bộ lư tức tờ giấy một trăm đồng có in hình bộ lư có mệnh giá lớn. Dân nghèo cầm tờ giấy xăng ra chợ thì lập tức lính tới hỏi.
b)-(ngh.r):món tiền lớn .
Vợ chồng xa, nhứt chết nhì đau,
Tui uống thuốc bạc trăm không có hết.
hoặc:
Má ơi! Con má hư rồi,
Còn đâu má gả, má đòi bạc trăm.
BẠC ( HV ) ( 2) :
: (tt)- mỏng, ít oi, thiếu thốn
Bước lên cầu ván cong vòng,
Thấy em ở bạc trong lòng hết thương.
(ở bạc: ăn ở không tình nghĩa)
*-bạc ngãi / bạc nghĩa: ăn ở không có tình, quên cả những gì người khác đã làm cho mình
Cha mẹ biểu em ưng, em đừng mới phải,
Em nỡ lòng nào bạc ngãi bỏ anh.
*-bạc tình: ăn ở không chung thủy, giữa chừng ruồng bỏ người thương yêu mình.
Bớ anh chung tình,
Em thương anh để dạ, sợ anh bạc tình bỏ ai.
Trong văn chương người ta dùng luôn chữ BẠC và dùng luôn cả nghĩa của nó là mỏng
a)-Bạc đi với bẽo .
- so sánh BẠC với VÔI. Nhưng nếu xét kỹ, đây là một cách nói theo thói quen; không phải vì Bạc là mỏng manh thiếu thốn và Vôi là chỉ vật màu trắng.
Phận sao phận bạc như vôi,
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
(Truyện Kiều)
Vì đâu nên phải bị lầm vôi
(Trần Tế Xương)
Ý tác giả muốn nói “lầụm thứ bạc tình bạc nghĩa”
b)-có nghĩa là mỏng
Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn,
Khuôn thiêng biết có vuông tròn mà hay.
(Truyện Kiều)
Ngỡi nhơn mỏng dánh tợ cánh chuồn chuồn,
Khi vui nó đậu khi buồn nó bay.
Khi chữ “mỏng” được dùng thay cho chữ “bạc”, nghĩa có vẻ mơ hồ và không súc tích. Cụm từ “phận mỏng cánh chuồn” không lột tả hết những lao đao lận đận của kẻ phận bạc. Và cụm “mỏng dánh tợ cánh chuồn chuồn” không cho ta thấy hết thói bạc tình bạc nghĩa của người đời.
BẠC (3):
- HV bác (lối chơi cờ ngày xưa, nay dùng để chỉ bài bạc).
Anh đi ghe rổi chín chèo,
Bởi anh thua bạc, nên nghèo nợ treo.
BẠC (4):
- HV bạch (trắng)
: màu trắng.
*-bạc đầu (cn: đầu bạc):
a)- tóc trên đầu màu trắng
Tiếc cây mía ngọt mà sâu,
Tiếc cô gái tốt bạc đầu khó coi.
b)- tuổi già
Dế kêu cho giải cơn sầu,
Mấy lời em nói, bạc đầu không quên.
BẠCH ( HV bạch: màu trắng ).
:màu trắng; sắc trắng.
Ngó lên chùm mây bạch,
Ngó xuống lòng lạch thấy con cá chạch đỏ đuôi.
BÀI CÀO :
:một lối chơi bài của bộ bài tây 52 lá. Người làm cái chia cho mỗi tay con ba lá. Aên hay thua tùy theo các lá bài mình có trong tay.
- ba tây là bài lớn nhứt
- mười nút là nhỏ nhất (còn gọi là bù)
- lớn nút hơn thì nhỏ nút hơn
Vd: chín nút thì ăn tám nút, nhưng thua ba tây
Chia bài xong, các tay con đồng loạt lật bài lên. Cái coi bài mình để chung tiền cho các tụ lớn hơn và hốt tiền của những tụ thua mình.
Thiếu chi những chị má đào,
Họ mê bài phé, bài cào, anh thất kinh.
BÃI :
1. chỗ cát hoặc bùn còn thấp được tạo ra do phù sa bồi đắp.
Nước ròng bỏ bãi xa cừ,
Mặt em có thẹo anh trừ đôi bông.
2. đống sền sệt, chài bài ra trông thấy gớm
*- bãi cứt: bãi phân
Đồ chua ai thấy cũng thèm,
Bãi cứt chèm nhèm ai thấy cũng ghê.
*-bãi cứt trâu: bãi phân trâu.
Tiếc con gái khôn lấy thằng chồng dại,
Như bông hoa lài cặm bãi cứt trâu.
*-bãi đờm dãi: đống đàm nhớt trong miệng khạc ra
*- bãi nước miếng: bãi nước bọt
*- bãi trầu: đám trầu cau vôi thuốc sền sệt nhả ra sau khi ăn
BẢI BUI :
- -( Bui: cách ký âm cổ của chữ VUI trongTự điển Việt Bồ La; bải: phối ngữ âm ).
: (cn: đãi bôi) -Vui vẻ, niềm nở với mọi người
Thương em thương dạng thương hình,
Thương lời ăn tiếng nói, thiệt tình không bải bui.
BAY:
-cn: phai
:(màu sắc) trở nên lợt và từ từ mất đi
Biểu em đừng thấy giàu có mà ham,
Giả như cây vải nhuộm chàm mau bay.
BAN ( HV ban: tên một thứ bệnh )
: bệnh thương hàn
*-ban cua: bệnh thương hàn nhập lý ( fièvre typhoide) do một loại vi khuẩn trong đường ruột. Bịnh nhân sốt cao mê man cả ngày, cảm thấy đau nhức khắp mình mẩy, cổ họng đau, miệng đắng và hôi khó ăn uống. Lưỡi đóng bợn trắng và nổi lên những mụt nhỏ lấm tấm khắp lưng và bụng.
Kể từ hồi em đau ban cua lưỡi trắng, miệng đắng cơm hôi,
Tiếc công anh đỡ đứng bồng ngồi,
Bây giờ em vinh hiển, em bắt anh bán nồi làm chi.
BAN SƠ ( HV ):
- Ban: lần, lúc, chuyến; sơ: mới chớm, mới bắt đầu.
: lúc đầu, giai đoạn đầu tiên
Dạy con dạy thuở còn thơ,
Dạy vợ từ lúc ban sơ mới về.
BÁN RAO:
-Đ.ng: rêu rao.
: nói cho mọi người biết cái xấu của người khác.
Trách lòng quân tử bia danh,
Chơi hoa rồi lại bẻ nhành bán rau.
BẠN :
1-người không họ hàng bà con với mình nhưng thường gặp gỡ lúc đi lại, làm việc, có thể cùng chí hướng hoặc sở thích.
Lên xe nhường chỗ bạn ngồi,
Nhường nơi bạn dựa, nhường lời bạn phân.
Ghép:
*- con bạn: dùng như đại từ nhân xưng ngôi ba, chỉ người bạn gái
Chim chuyền nhành ớt líu lo,
Mảng sầu con bạn, ốm o gầy mòn.
*- bạn lan: (HV: lan hữu) -người bạn quân tử đáng quí như hoa lan
Một mai trống lủng khó hàn,
Dây dùn khó đứt bạn lan khó tìm.
*- bạn mình: đại từ nhân xưng ngôi hai, dùng với vẻ thân mật.
Bớ bạn mình ơi! Tôi xa mình ông trời nắng tôi nói mưa,
Canh ba tôi nói sáng, ông trời trưa tôi nói chiều.
*- bạn ngọc: người bạn quí, tốt đẹp như ngọc
Mặt đất láng quyên tự nhiên cây cỏ mọc,
Bởi phận tôi nghèo, bạn ngọc có đôi.
*- bạn vàng (do HV kim hữu hoặc kim bằng): người bạn quí.
Khăn tay lau nước mắt bạn vàng,
Khuyên anh đừng rơi luỵ giữa đàng em khó phân.
2-dùng như đại từ nhân xưng ngôi thứ hai.
Muốn cho nhơn nghĩa đạo đồng,
Tôi đây thương bạn như chồng bạn thương.
3-người giúp việc.
*-bạn ghe chài: công nhân làm việc cho chủ ghe chài, lãnh việc chèo chống hoặc bóc xếp hàng hoá.
Anh đừng ham làm bạn ghe chài,
Cột buồm cao, bao lúa nặng, đòn dài khó đi.
BÀNG :
-t.k.h: Lepironia articulata, Epironia, họ Lác Cyperaceae.
: (thực):loại cây mềm, bộng ruột, có ngấn ngang, cao quá đầu người, mọc hoang ở vùng ruộng ngập nước,ở các trũng phèn,nhiều nhất ở vùng Đồng Tháp,Hà Tiên.Người ta cắt bàng về phơi cho ráo rồi giã cho cây giẹp rađể đươn đệm, nóp hoặc bao cà ròn.
Chàng đi cắt bàng cho nàng đươn đệm,
Mãn mùa rồi bán đệm chia hai.
BÁNH BÈO :
:Bánh làm bằng bột gạo hoặc bột lọc lỏng đổ vào chén hoặc khuôn tròn nhỏ hấp chín. Khi ăn, người ta rắc nhụy tôm chấy hoặc nhân đậu xanh lên trên.
Nợ treo mặc kệ nợ treo,
Em bán bánh bèo, trả nợ nuôi anh.
BÁNH BÒ:
:tên lọai bánh bột hấp xốp và dai.Bánh bò làm bằng đường thùng,đường thô
thì có màu vàng đậm.
Hai tay bưng quả bánh bò,
Giấu cha,giấu mẹ cho trò đi thi.
*-bánh bò bông: bánh bò có màu trắng tinh như bông làm bằng đường cát trắng.
Vái ông Tơ một dĩa bánh bò bông,
Cùng bà Nguyệt lão gắng công xe giùm.
BÁNH CANH:
:bánh làm bằng những sợi bột gạo dài to bằng đầu đũa nấu với thịt. Đây là món ăn giống như hũ tíu, phở.
Áo vắt vai chạy dài xuống chợ,
Xin ba đồng tiền trả nợ bánh canh.
BÁNH ĐÚC :
:bánh bột gạo pha ít nếp xay nhuyễn để vào khuôn hấp. Người ta thường ăn bánh đúc với nước đường thắng kẹo.
Mấy đời bánh đúc có xương,
Mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng.
BÁNH HỎI:
:bánh làm bằng bột gạo xay nhuyễn,ép qua khuôn thành sợi nhưng sợi nhỏ
hơn cộng bún.
Nước mắm ngon dành ăn bánh hỏi,
Qua thương nàng mòn mỏi mấy năm.
BÁNH ÍT :
-cv: Bánh ếch
:Loại bánh bằng bột nếp bọc cục nhưn / nhân (tôm thịt, đậu xanh hoặc dừa) gói trong lá chuối và hấp chín. Riêng bánh ít trần không bọc trong lá.
Bánh nhiều lắm, sao gọi là bánh ít?
Chuối non nhớt, sao lại gọi chuối và?
*-bánh ít ngọt: bánh ít gói bằng bột nếp pha đường.
BÁNH MÌ TÂY:
: loại bánh làm bằng bột mì nướng nổi xốp du nhập vào Việt Nam từ cuối thế kỷ 19.
Dao vàng cắt bánh mì Tây,
Dầu anh thương vô hạn, cha mẹ rầy cũng thôi.
BÁNH PHỒNG :
:Bánh làm toàn bằng bột nếp xôi trong chõ, bỏ vào cối quết nhuyễn, vò thành cục tròn như viên chè rồi cán mỏng phơi khô. Khi được nướng trên lửa, nhất là lửa ngọn, bánh sẽ phồng lên, dày lên và chuồi to ra. Trước đây, khoảng thập niên 1950, khoảng hai mươi tháng chạp âm lịch, nhà nào cũng quết bánh phồng để ăn Tết.
Bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc, măng cụt Hàm Luông.
Ngoài loại bánh phồng nếp, vừa kể, còn có:
*- bánh phồng mì: làm bằng củ mì lột vỏ, cũng xôi trong chõ, đem quết trong cối, vò viên tròn to, cán mỏng và đem phơi.
*-bánh phồng tôm: làm bằng bột mì trộn với bột tôm, bỏ vào chảo mỡ chiên phồng lên.
BÁNH TRÁNG :
:loại bánh làm bằng bột lỏng múc ra đổ trên tấm vải căng trên miệng trả nứơc đang sôi. Khi đã đổ bột lên mặt vải, người ta lấy cái vá cán dài tráng mỏng bột ra và đậy kín lại. Khi bánh chín, người ta dùng đũa bếp gở bánh ra đem đi phơi.
*- bánh tráng dừa: bột lỏng có trộn nước cốt dừa, thêm mè. Bánh này tráng dày để cúng hoặc ăn chơi.
*- bánh tráng nem: tráng mỏng đem phơi sương cho dịu, dùng để cuốn rau, cá, thịt trong tiệc tùng hoặc làm món gỏi cuốn, chả giò.
Nghe anh đi đó đi đây, cho em hỏi vặn câu này,
Bánh phồng bánh tráng đất này đâu ngon?
BẢNH:
-từ này có nhiều nghĩa tùy theo ngữ cảnh
*- bảnh trai: đẹp trai
*-ăn mặc bảnh: ăn mặc sang trọng đẹp đẽ
*-nói năng bảnh: khôn khéo trong việc ăn nói
Vậy, BẢNH diễn tả nét đẹp hoặc tánh tốt nổi bật hơn người.
Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh,
Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân.
Ghép:
*-bảnh bao: (Nam bộ ít dùng trong văn nói)
*- bảnh tỏn / bảnh tẻn (với ý mỉa mai)
Vd: Nhờ có bộ đồ vía mà đã lên đời ! Coi bảnh tẻn quá!
BAO ( HV ):
:bọc một lớp bên ngoài để bảo vệ vật bên trong.
Ngó lên đầu tóc em bao,
Chéo khăn em bịt, dạ nào chẳng xiêu.
Bao ở đây có nghĩa là bao lưới cái đầu tóc. Sau khi bới xong đầu tóc, người ta dùng một túi lưới nhỏ bọc đầu tóc lại cho đẹp và khỏi bung mối.
BAO GIỜ :
1-dùng trong câu hỏi hay trong câu nói thường, có nghĩa là chừng nào, khi nào, tới khi nào.
Bao giờ Chợ lớn hết vôi,
Em đây hết đứng hết ngồi với anh.
2-bao giờ có thể dùng kèm với một mệnh đề
a)- diễn tả nghịch lý:
Bao giờ đá nổi vông chìm,
Muối chua chanh mặn mới tìm đặng em.
b)-diễn tả một ước mơ, một mong mỏi:
Bao giờ cho đặng sum vầy,
Giao hoan đôi mặt dạ này mới vui.
BAO LỚN:
:đâu có lớn bao nhiêu.
Em chớ thấy anh bé nhỏ mà sầu,
Con ong kia bao lớn, nó chích trái bầu cũng eo.
BAO NHIÊU …BẤY NHIÊU
:lối so sánh đôi trong tiếng Việt, có nghĩa là càng nhiều chừng nào thì …thì càng nhiều chừng ấy.
Cây da trước miễu, ai biểu cây da tàn,
Bao nhiêu lá rụng, anh thương nàng bấy nhiêu.
BAO THUỞ:
:chẳng mấy khi, biết chừng nào.
Hoa tàn thì mặc hoa tàn,
Bao thuở gặp nàng mà biểu anh buông?
hoặc :
Nhạn về biển bắc nhạn ôi,
Bao thuở nhạn hồi để én đợi trông?
BÀO :
1-gọt lấy bớt lớp ngoài của vật gì để cho nó được trơn láng.
Má ơi ! Con muốn lấy anh thợ bào.
Trườn lên tuột xuống, nhát nào cũng êm.
2-(ngh.b): đau đớn nhiều trong gan ruột
Anh thương em ruột thắt gan bào,
Biết em thương lại chút nào hay không.
BÁO BỔ SANH THÀNH (HV: ):
-(Báo: đền đáp. Bổ: bồi đắp cho đủ. Sanh: đẻ ra. Thành: nuôi dạy cho nên người).
:Bổn phận con cái là báo đáp công ơn cha mẹ đã sanh thành ra mình và dày công nuôi dạy mình nên người.
Anh về báo bổ sanh thành,
Chừng nào bóng xế rũ mành sẽ hay.
BÁO NGÁO BƠ NGƠ:
-cn: bơ ngơ báo ngáo; ngơ ngáo.
: có vẻ mặt lơ láo, chẳng hiểu biết chi cả ngay dù cố đảo mắt nhìn quanh để tìm hiểu mọi thứ.
Cô hai ở vậy thì xong,
Cô ba không chồng báo ngáo bơ ngơ.
BÀU :
:Vùng đất rộng, thấp trũng, nước đọng quanh năm. Người ta thường dùng bàu để thả cá, trồng rau nhút, rau muống hoặc ấu.
Nứơc bưng bậu không uống, bậu uống nước bàu,
Chê đây lấy đó, ai giàu hơn ai?
BẢY PHỦ:
- HV: thất phủ.
-cg: bảy bang.
1- bảy sắc dân Hoa kiều sinh sống tại Việt Nam. Mỗi bang hội gồm những người nói cùng một thứ tiếng và ở cùng một tỉnh.
2-( ngh. b ): chỉ một phạm vi rộng lớn.
Vd: người ăn cơm bảy phủ: người đã đi nhiều nơi, thấy nhiều biết nhiều, lịch lãm trong cuộc sống.
Ví dầu đèn tỏ hơn trăng,
Trăng soi bảy phủ, đèn chong một nhà.